Phạm Ngọc Thái
Doanh nhân Đặng Triệu Hòa: Không phiêu lưu, doanh nhân chỉ có thể là nhà quản trị đơn thuần
Nếu tìm kiếm thông tin về những doanh nhân gốc Hoa có tầm ảnh hưởng đến một hoặc nhiều ngành tại thị trường nội địa, có lẽ cái tên Đặng Triệu Hòa chưa được nhắc đến nhiều.
“Mặc dù là người gốc Hoa, nhưng tôi lớn lên ở Việt Nam. Tôi là người Việt Nam và đây là quê hương tôi”, Chủ tịch Sợi Thế Kỷ tự hào.
![]() |
Doanh nhân Đặng Triệu Hòa |
Ông Hòa là người gây dựng và nắm quyền điều hành Sợi Thế Kỷ từ ngày đầu thành lập. Gần 2 thập kỷ trôi qua, đến nay, Sợi Thế Kỷ tự tin đủ khả năng cạnh tranh với các tập đoàn đa quốc gia trong lĩnh vực sợi dài phân khúc cao cấp. Sợi Thế Kỷ hiện là doanh nghiệp xuất khẩu sợi dài lớn thứ 2 của Việt Nam, chiếm 28% giá trị xuất khẩu sợi dài của cả nước năm 2017.
Ông gắn bó với ngành sợi từ khi 22 tuổi, trải qua nhiều vị trí, từ nhân viên kinh doanh sợi, đến trưởng phòng, rồi phó giám đốc tại một công ty nước ngoài. Quá trình này đã góp phần hình thành trong ông một hệ thống kiến thức cơ bản về công việc sản xuất cũng như khả năng đánh giá về tiềm năng phát triển của ngành.
Tuy nhiên, do sự thay đổi về cổ đông lớn từ phía công ty mẹ ở Đài Loan, công ty ông Hòa làm việc lúc đó cũng bị ảnh hưởng. Nửa năm sau đó, ông quyết định nghỉ việc để lập công ty riêng.
Sau hơn 8 năm làm thương mại, ông Đặng Triệu Hòa quyết định mở rộng sang lĩnh vực sản xuất với việc thành lập Công ty TNHH Sản xuất thương mại Sợi Thế Kỷ vào năm 2000.
5 năm sau đó, người sáng lập Sợi Thế Kỷ đã kêu gọi góp vốn từ nhiều cổ đông khác để thành lập công ty cổ phần.
Có thể thấy, từ 13 năm trước, khi cuộc cạnh tranh trong ngành sợi chưa gay gắt, ông Hòa đã mường tượng đến việc phải “đóng một con tàu đủ lớn và vững chắc, chuẩn bị nắm bắt cơ hội tăng trưởng của thị trường”. Ông chia sẻ, để có thêm sự đóng góp về kinh nghiệm quản trị và dòng vốn đầu tư cho nhân sự, công nghệ, thì việc “mở cửa” đón cổ đông chính là phương án tối ưu nhất.
Cứ như thế, từ năm 2005, vốn điều lệ của Sợi Thế Kỷ tăng đều đặn từ 50 tỷ đồng lên gần 600 tỷ đồng (tính đến cuối năm 2017), sau 15 lần phát hành. Từ việc sở hữu nhà máy kéo sợi có công suất 4.800 tấn/năm, Sợi Thế Kỷ nâng năng lực sản xuất lên hơn 12 lần, ở mức 60.000 tấn/năm, tạm đủ sản phẩm cung cấp thẳng đến các công ty dệt, cung cấp sản phẩm cao cấp cho hàng loạt nhãn hàng quốc tế như H&M, Nike, Adidas, The North Face, Under Armour, Uniqlo… hay trở thành đối tác của Unifi…
Tuy nhiên, ông Hòa khẳng định, Sợi Thế Kỷ chưa từng muốn có được một khách hàng nào lớn tới mức, nếu họ không tiếp tục hợp tác, doanh nghiệp sẽ lâm vào cảnh lao đao.
“Sẽ có người cho rằng mức tăng trưởng 20 – 30%/năm của Sợi Thế Kỷ là chậm, nhưng quan điểm của tôi là, nếu chỉ tăng trưởng dựa vào số lượng mà không chú trọng chất lượng và nâng giá trị gia tăng, thì rủi ro rất cao. Sợi Thế Kỷ hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, nên không thể cứ liên tục mở rộng nhà máy mà không nghiên cứu, phát triển sản phẩm tiên phong và khác biệt”, ông Hòa thẳng thắn.
Tăng ga, đổi hướng
Việc trở thành công ty đại chúng từ năm 2014 đã mang lại cho Sợi Thế Kỷ một sắc màu mới. Phát hành thành công 3 triệu cổ phiếu, thu về 75 tỷ đồng, góp phần vào mở rộng dự án Trảng Bàng giai đoạn III. Dù là công ty gia đình khi 3 thành viên sáng lập Hội đồng Quản trị vẫn nắm gần 31% vốn điều lệ, nhưng Sợi Thế Kỷ đã có sự tham gia của nhà đầu tư lớn ở giai đoạn đầu là Red River Holding với 25,1% vốn điều lệ. Sau khi quỹ này thoái vốn, Công ty cổ phần Tư vấn đầu tư Hướng Việt và Vietnam Holding Limited đã thay thế và đang nắm số cổ phần tương ứng là 20,2% và 7,6% tại Sợi Thế Kỷ.
Nhưng, không phải doanh nghiệp nào cũng có thể chủ động miễn dịch với sai lầm. Sợi Thế Kỷ bước vào thời kỳ khủng hoảng suốt hai năm sau đó. Bắt đầu từ tháng 5/2015, Thổ Nhĩ Kỳ, thị trường chính của Sợi Thế Kỷ, khởi xướng vụ kiện chống bán phá giá các sản phẩm sợi dài từ Việt Nam.
Chủ tịch Sợi Thế Kỷ dũng cảm thừa nhận, đó là lỗi của mình. “Đúng là tôi có phần chủ quan, vì không nghĩ vụ khởi kiện đến sớm hơn dự kiến 1 – 2 năm. Đây là kinh nghiệm quý báu cho tôi và Công ty. Đó là phải dự báo được những yếu tố rủi ro và có phương án phòng bị để hạn chế các cú sốc đối với hoạt động kinh doanh”, ông Hòa trải lòng khi nhìn lại giai đoạn khó khăn của Sợi Thế Kỷ.
Khi đó, “người cầm lái” ở Sợi Thế Kỷ có 2 việc phải làm. Một là, thuê luật sư theo đuổi vụ kiện đến cùng để bảo vệ quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp. Hai là, tăng tốc thực hiện chiến lược khai thác thị trường mới thay thế cho Thổ Nhĩ Kỳ.
Sợi Thế Kỷ đã bỏ ra không dưới 80.000 USD để thuê luật sư khởi kiện, đồng thời tích cực xúc tiến thương mại tại Nhật Bản và Hàn Quốc, tìm hiểu nhu cầu sử dụng sợi của khách hàng tại hai thị trường này và mời họ dùng thử hàng mẫu.
Ông Hòa cho biết, các khách hàng Nhật Bản, Hàn Quốc rất thận trọng với việc chuyển đổi sang nhà cung ứng mới. Thậm chí, có đối tác từ Nhật Bản dành 2 – 3 năm với hơn 20 chuyến thăm để tìm hiểu về Sợi Thế Kỷ mà không thực hiện bất cứ đơn đặt hàng nào trong suốt quá trình đó.
Vị Chủ tịch này có khả năng vạch ra các chiến lược có tầm nhìn dài hạn, nhờ đó không chỉ đưa Sợi Thế Kỷ vượt qua khủng hoảng, mà còn đứng đầu trong danh sách 4 công ty xuất khẩu sợi lớn nhất của Việt Nam sang Nhật Bản. Năm 2017, giá trị và sản lượng xuất khẩu sợi của Công ty sang Nhật Bản đạt mức tăng trưởng ấn tượng, với mức tăng lần lượt là 737% và 850% so với năm 2016.
“Nhân tố bí ẩn” kế nhiệm
Sợi Thế Kỷ không có “quyền lực cứng” hay “quyền lực mềm” nào để hút các đơn hàng sợi dài từ các đối tác danh tiếng, ngoài việc tập trung cải tiến, nghiên cứu mẫu mã, chào bán những mặt hàng chất lượng, giá cả cạnh tranh và mang đến sự hài lòng cho khách hàng trong các dịch vụ.
Ông Đặng Triệu Hòa vừa có một buổi trao đổi riêng với giám đốc cấp cao của một đối tác Nhật Bản và đặt câu hỏi, tại sao họ phải tốn nhiều thời gian để bắt đầu giao dịch với một đối tác, nhà cung ứng mới như Sợi Thế Kỷ.
“Câu trả lời tôi nhận được là, một phần, họ muốn có nguồn cung ở các nước Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam, thay vì tập trung quá nhiều vào Trung Quốc. Mặt khác, họ quan niệm rằng, để có một đối tác bền vững, đáng tin cậy trong kinh doanh suốt 20 – 30 năm, thì việc dành nhiều chi phí và thời gian để tìm hiểu không phải là lãng phí. Bởi, quá trình này sẽ bộc lộ các nhà cung ứng, đối tác có thực sự lành mạnh về tài chính, phát triển bền vững và có tính kiên trì, có năng lực cung ứng hay không”, ông Hòa kể lại một cách tường tận.
Ông không quên nhấn mạnh, niềm tin trong trường hợp này là điều vô cùng quan trọng. Khách hàng chỉ quyết định mua khi nhu cầu được xác định rõ ràng, mối quan hệ tin cậy được tạo dựng và giá trị thương hiệu của nhà cung cấp được chứng minh.
“Chúng tôi trả lời email của khách hàng chỉ trong 1 phút, và tận dụng mọi ứng dụng như WhatApps, Viber… để xử lý công việc theo nhiều cách nhanh nhất có thể”, Chủ tịch Sợi Thế Kỷ tự hào.
Việc nhận đơn đặt hàng dài hạn có thể là bước đi thông minh đón đầu các khả năng nguyên liệu giảm giá, nhưng cũng có thể là “nước cờ” sai lầm tai hại được thực hiện khi yếu tố quyết định phần lớn giá thành sản phẩm đang ở mức cao nhất.
Là một trong 2 doanh nghiệp nắm giữ quyền quyết định giá sản phẩm sợi dài tại thị trường nội địa, nhưng ông Hòa quả quyết, “mình không được phép lời quá cao, vì khi đó, khách hàng của mình sẽ bị thiệt hại”.
Doanh nghiệp có kế hoạch doanh thu năm 2018 khoảng 2.354 tỷ đồng và lợi nhuận 125,8 tỷ đồng này chuẩn bị có người kế nhiệm một trong hai vị trí mà ông Hòa đang đảm nhận. Đến nay, đã có 2 ứng viên, cả trong và ngoài Sợi Thế Kỷ, phù hợp cho “chiếc ghế” trên. Ông Hòa cho biết, ông thích “nhân tố bí ẩn” này giữ vai trò Tổng giám đốc hơn là Chủ tịch Hội đồng quản trị.
Ông Hòa chia sẻ, chơi một ván cờ tướng, đi bơi hoặc nghe vài bản nhạc mỗi khi rảnh rỗi giúp ông nhận ra rằng, thế giới này rộng lớn hơn “vương quốc” công việc mà ông đang đắm mình trong đó. Ông bảo: “Có lẽ, lãng mạn là phiêu lưu, nhưng doanh nhân mà không phiêu lưu thì chỉ có thể là một nhà quản trị đơn thuần”.
STK ước đạt hơn 83 tỷ đồng lãi ròng trong 6 tháng đầu năm
STK ước đạt hơn 83 tỷ đồng lãi ròng trong 6 tháng đầu năm
![STK ước đạt hơn 83 tỷ đồng lãi ròng trong 6 tháng đầu năm](https://image.tinnhanhchungkhoan.vn/w660/Uploaded/2018/unvjuop/2018_06_26/20180626_121255_ncnw.jpg)
Ông Đặng Triệu Hòa trao đổi cùng giới phân tích
Theo đại diện Công ty, kết quả đạt được trên khá sát với kế hoạch theo quý của STK. So với kế hoạch năm, STK đã hoàn thành lần lượt 50% và 67% chỉ tiêu doanh thu và lợi nhuận sau 6 tháng.
Theo STK, biên lợi nhuận gộp trên doanh thu trong 6 tháng đầu năm ghi nhận sự cải thiện, đạt khoảng 13% trong khi kế hoạch đề ra trên cơ sở biên lợi nhuận gộp 10%.
Đại diện công bố thông tin của STK cho biết, biên lợi nhuận gộp cải thiện là do thay đổi cơ cấu đẩy mạnh sản phẩm sợi tái chế. Mảng sợi tái chế có biên lợi nhuận gộp trên doanh thu cao hơn gấp đôi so với sản phẩm thông thường.
Bên cạnh đó, các nhà máy đều lắp đầy công suất nên tiết kiệm chi phí và công ty cũng đã giải quyết được một lượng hàng tồn kho lớn của năm 2017. Được biết, nhà máy Trảng Bàng 4 đi vào hoạt động vào năm 2017 đã giúp nâng tổng công suất các nhà máy của STK đạt 60.000 tấn sợi/năm.
Cũng theo đại diện STK, nếu thị trường không có biến động, dự báo cả năm STK có thể hoàn thành mức chỉ tiêu doanh thu và vượt chỉ tiêu lợi nhuận 5-10% so với kế hoạch.
Theo ông Đặng Triệu Hòa, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc STK, giá sợi đã bắt đầu tăng từ tháng 12/2017. Riêng trong 5 tháng đầu năm 2018, giá sợi tăng 19%. Trong 5 tháng đầu năm, STK có hơn 80 khách hàng mới.
Năm 2018, STK dự kiến đầu tư hơn 116 tỷ đồng cho máy móc thiết bị nhà máy Trảng Bàng 5. STK đã khởi động dự án từ cuối năm 2017, dự kiến triển khai trong tháng 3/2018 và hoàn thành đưa vào vận hành từ tháng 9/2018.
Trong năm 2018, khi nhà máy đi vào hoạt động sẽ giúp STK tăng thêm 8% (bao gồm công suất sợi tái chế) so với hiện tại. Nguồn vốn thực hiện bao gồm vốn tự có và vốn huy động trong đợt chào bán 10% vốn cổ phần cho cổ đông hiện hữu dự kiến thực hiện trong quý IV năm nay.
STK ước đạt 83 tỷ đồng lãi ròng trong 6 tháng đầu năm
Chúc mừng đến với WordPress. Đây là bài viết đầu tiên của bạn. Hãy chỉnh sửa hay xóa bài viết này, và bắt đầu viết blog!
STK – Analyst Meeting
Thân gửi các Chuyên Gia Phân Tích và các Nhà Đầu Tư,
Công ty cổ phần Sợi Thế Kỷ (HSX: STK) là một trong hai nhà sản xuất sợi Polyester chất lượng cao tại Việt Nam. Năm 2017 đã qua Sợi Thế Kỷ ghi nhận kết quả hoạt động tích cực với doanh thu và lợi nhuận tăng trưởng mạnh mẽ so với năm 2016. Đây là một thành tích đáng tự hào với Công ty, đánh dấu một chương mới trong chiến lược hướng tới tăng trưởng bền vững của Công ty.
Để hiểu rõ về những điều đã làm nên thành công của Sợi Thế Kỷ, tiềm năng phát triển và những kế hoạch tiếp theo của Công ty, chúng tôi trân trọng tổ chức buổi gặp gỡ giữa các chuyên gia phân tích và quý nhà đầu tư với Ban lãnh đạo của Công ty.
Thời gian: thứ 3, ngày 26 tháng 6 năm 2018
Địa điểm: Khu Công Nghiệp Trảng Bàng, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh
Buổi thuyết trình này sẽ được tổ chức với nội dung trọng tâm bao gồm kết quả ban đầu của chiến lược thay đổi cơ cấu sản phẩm, khai phá thị trường mới, kết quả hoạt động kinh doanh 6 tháng đầu năm 2018 và chiến lược phát triển của Công ty nhằm tận dụng lợi thế từ các Hiệp định thương mại tự do và CPTPP.
Cuộc gặp gỡ sẽ được tổ chức bằng tiếng Việt. Tài liệu trình bày sẽ được đăng tải trên trang web của chúng tôi sau sự kiện.
Chúng tôi rất mong chờ được tiếp đón quý vị. Xin vui lòng xác nhận tham gia trước 16h, ngày 22 tháng 6 năm 2018 cho cô Lê Ngọc Phương Anh qua sđt: 0902517726 hoặc qua mail: anhle@century.vn
Trân trọng,
Đặng Triệu Hòa
Tổng Giám đốc
Chi tiết thư mời: vui lòng tải tại đây
Xuất khẩu xơ sợi năm 2018- Cơ hội bứt phá
Xuất khẩu xơ sợi năm 2018- Cơ hội bứt phá
Dù ngành sản xuất vải chưa cung ứng đủ cho ngành may trong nước, nhưng khâu sản xuất trước vải là sợi đang góp phần không nhỏ vào kim ngạch xuất khẩu (XK) chung của toàn ngành. Theo dự báo, XK xơ sợi của Việt Nam sẽ đạt khoảng 3,9 tỷ USD trong năm nay.
Dây chuyền sản xuất hiện đại của Sợi Thế Kỷ đáp ứng nhu cầu xuất khẩu
Tăng cả lượng và giá trị
Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), quý 1/2018, XK xơ sợi của Việt Nam đạt 337 nghìn tấn, đạt kim ngạch 914 triệu USD, tăng 14,2% về lượng và 17,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2017. Với tốc độ tăng trưởng cao như hiện nay, VITAS dự báo XK xơ sợi của Việt Nam năm 2018 sẽ đạt khoảng 3,9 tỷ USD.
Bà Nguyễn Thị Tuyết Mai – Phó Tổng thư ký VITAS – cho biết, những tháng đầu năm 2018, mặt hàng xơ sợi XK có sự tăng trưởng rất tốt, đặc biệt tăng mạnh ở thị trường Hàn Quốc, Ấn Độ… và tăng đột biến ở thị trường Mỹ.
Là một trong những doanh nghiệp (DN) xuất khẩu xơ sợi hàng đầu tại Việt Nam và có sản lượng XK tăng cao trong 2 năm qua, Công ty CP Sợi Thế Kỷ (STK) 4 tháng đầu năm đã XK 19,278 tấn sợi, tăng 15.7% so với cùng kỳ năm 2017. Ông Đặng Triệu Hòa – Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc công ty STK – cho biết: Thị trường XK chính của STK là Nhật Bản (chiếm 17% doanh số), Thái Lan (15.6%), Hàn Quốc (6%), Đài Loan (5%), Pakistan (3%). Ngoài ra, XK tại chỗ (bán cho các khách hàng nội địa nhưng thu ngoại tệ) cũng đóng góp tới 9,1% doanh số.
Phân tích về sự phát triển của lĩnh vực xơ sợi, ông Nguyễn Bình An – Tổng Thư ký Hiệp hội Sợi Việt Nam – nhìn nhận, trước năm 2000, quy mô sản xuất của ngành sợi chỉ đạt 1 triệu cọc, nhưng từ sau năm 2000, hoạt động sản xuất sợi bắt đầu phát triển mạnh, đạt 3,7 triệu cọc năm 2007 và hiện là 7 triệu cọc sợi.
Nhiều lợi thế để gia tăng xuất khẩu
Về triển vọng thị trường, bà Nguyễn Thị Tuyết Mai cho rằng, ngành sợi sẽ còn phát triển về quy mô hơn nữa với thị trường ngày càng rộng mở nhờ lợi thế của các FTA thế hệ mới. Cụ thể là Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA) và Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA) đều cắt giảm thuế xuất nhập khẩu sợi từ Việt Nam xuống 0%. Do đó, các DN sợi của Việt Nam đều được hưởng lợi lớn từ các ưu đãi thuế quan này. Bên cạnh đó, Hàn Quốc đã định hướng rất rõ trong chiến lược phát triển dệt may là mở rộng đầu tư sang Việt Nam, sản xuất sợi tại Việt Nam và xuất ngược về Hàn Quốc. Trong khi đó, Nhật Bản có định hướng không phát triển dệt may trong nước nữa nên các DN Nhật có xu hướng đặt hàng sợi của Việt Nam. Ngay cả Trung Quốc cũng mua sợi Việt Nam rất nhiều trong những năm gần đây.
Theo ông Đặng Triệu Hòa, triển vọng XK của STK năm 2018 khá tốt do công ty đã tạo lập được uy tín về chất lượng sản phẩm và dịch vụ với các khách hàng lớn. Ngoài ra, STK còn có khả năng mở rộng XK sản phẩm sợi làm từ nguyên liệu tái chế sang một số thị trường mới như Indonesia, Czech, Mexico…
Để tận dụng lợi thế từ các thị trường trên, STK đang gia tăng XK nhằm đạt mục tiêu năm 2018, kim ngạch XK sẽ đóng góp tới 61% tổng doanh thu của công ty. Đồng thời, công ty cũng đang triển khai xây dựng nhà máy Trảng Bàng 5 nhằm tăng công suất sợi DTY thêm 3.300 tấn, nâng tổng công suất toàn công ty lên 63.300 tấn vào quý I/2019. Ngoài ra, dự án còn có thêm 1 dây chuyền tái chế sợi phế thành hạt nhựa để tái sử dụng nội bộ với công suất 1.500 tấn. Dây chuyền này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty.
Bà Nguyễn Thị Tuyết Mai Phó Tổng Thư ký VITAS: Về triển vọng thị trường, ngành sợi sẽ còn phát triển về quy mô hơn nữa với thị trường ngày càng rộng mở nhờ lợi thế của các FTA thế hệ mới.
Minh Long – Mai Ca
Báo cáo cập nhật ĐHĐCĐ của STK từ BSC
STK – CTCP Sợi Thế Kỷ – P/E fw 8.1x – P/B fw 1.2x
Kết quả kinh doanh 2017:
– Doanh thu 1,989 tỷ (+46% yoy). Trong đó: doanh thu xuất khẩu (35% doanh thu) tăng trưởng mạnh: Thái Lan (12+% yoy), Hàn Quốc (+11% yoy), Nhật Bản (+12% yoy), bên cạnh tiêu thụ nội địa (+63% yoy).
– LNST tăng mạnh đạt 99.6 tỷ (+248% yoy), tương đương với EPS = 1,662 đồng (+211% yoy) nhờ sản lượng sợi tăng đáng kể đạt 53,939 tấn (+31% yoy), chuyển dịch thành công sang các trường Thái lan, Hàn Quốc và Nhật Bản.
Kế hoạch kinh doanh 2018:
– Doanh thu 2,354 tỷ (+18.4% YoY)
– LNST 125.8 tỷ (+26.3% YoY).
Chúng tôi đánh giá KH2018 của STK là khả thi dựa trên những luận điểm sau:
(1) Nhu cầu đối với sản phẩm sợi Polyester Filament tăng trung bình 7% theo Technon Orbichem giai đoạn 2018-2025, cao hơn tốc độ tăng trưởng của các sợi khác là 3%. Sản phẩm của STK 100% là sợi tổng hợp, trong đó sợi DTY (75%), sợi FDY (11%) và sợi Recycle (14%).
(2) Năng lực sản xuất của STK lớn với 60,000 tấn sợi DTY và FDY, đứng thứ hai toàn ngành (sau Formosa). STK tiếp tục đầu tư mở rộng công suất tại các dự án Tràng Bảng 5 (công suất 3,300 tấn DTA và sợi tái chế) và dự án sợi màu (6,120 tấn).
(3) Giá sợi tăng 12% yoy do giá dầu thô WTI tăng mạnh từ căng thẳng chính trị giữa Mỹ – Iran – Nga và việc cắt giảm sản lượng dầu thô của OPEC đã đẩy giá dầu tăng 16.1% đạt $57.4/thùng 2017 khiến cho giá nguyên vật liệu đầu vào tăng là hạt nhựa PET Chip tăng (+14.5% yoy) sản xuất từ PTA và MEG là các sản phẩm từ dầu mỏ cũng tăng lần lượt (+8.2% yoy) và (+29.2% yoy).
KQKD Quý 1/2018: LNST đạt 40.1 tỷ, vượt 27.5% so với kế hoạch là 31.45 tỷ.
Dự án mở rộng công suất: (1) dự án NM Tràng Bảng 5 công suất 3,300 tấn DTY (+5.5% công suất) và tái chế sợi phế thành 1.500 tấn hạt nhựa, mức đầu tư 129 tỷ, dự kiến đi vào hoạt động tháng 9/2018; (2) dự án sợi màu hợp tác với E.DYE LTD công suất 6,120 tấn, vốn góp đầu tư của STK là 27 tỷ, dự kiến đi vào hoạt động trong quý 3 hoặc quý 4/2018.
Phân phối lợi nhuận: cổ tức 2017 là 15% (8% tiền mặt và 7% cổ phiếu).
Kế hoạch phát hành: (1) Phát hành ESOP: 600,000 cổ phiếu, dự kiến thu về là 6 tỷ đồng; (2) Phát hành thêm 5,99 triệu cổ phiếu mục đích xây dựng các dự án,STK ước tính thu về 59,9 tỷ đồng nâng vốn lên 659.3 tỷ đồng.
Nguồn: BSC
Đại hội đồng cổ đông STK: Đẩy mạnh công tác IR để tăng thanh khoản cổ phiếu
Đại hội đồng cổ đông STK: Đẩy mạnh công tác IR để tăng thanh khoản cổ phiếu
(ĐTCK) Tại ĐHCĐ CTCP Sợi Thế kỷ (STK), ông Đặng Triệu Hòa, Chủ tịch HĐQT cho biết, quý I/2018, lợi nhuận của Công ty ước đạt 40 tỷ đồng, vượt 33% kế hoạch quý.
Dệt may hồi phục, STK lên kế hoạch tăng trưởng lợi nhuận hơn 26%
Năm 2017, STK đạt doanh thu thuần 1.989 tỷ đồng, vượt 3,9% kế hoạch, tăng trưởng 46,5%; lợi nhuận sau thuế đạt 99,6 tỷ đồng, vượt 14,3% kế hoạch, tăng trưởng 148,3% so với năm 2016. Cổ tức 15% trong đó 8% bằng tiền và 7% bằng cổ phiếu.
Năm 2018, STK đặt kế hoạch doanh thu 2.354 tỷ đồng, tăng trưởng 18,4%; lợi nhuận sau thuế 125,8 tỷ đồng, tăng trưởng 26,3% so với năm 2017. EPS dự kiến gần 1.970 đồng.
Kế hoạch kinh doanh năm 2018 được xây dựng trên cơ sở giá bán bình quân tăng 7%; giá chip bình quân tăng 5%; Price Gap tăng 9%; biên lợi nhuận gộp đạt 11,6%.
Tại đại hội, ông Hòa cho biết, STK sẽ rót gần 117 tỷ đồng vào Dự án Trảng Bàng 5 (TB5). Sau khi đi vào hoạt động, sẽ nâng công suất lên 3.300 tấn/năm, đồng thời TB5 tái chế lại sợi phế liệu giúp tăng tính hiệu quả cho công ty.
Ngoài ra, STK cũng góp vốn để đầu tư nhà máy sợi màu ở Củ Chi, trong đó STK góp một phần nhà xưởng và máy móc thiết bị hiện hữu ở Trảng Bàng và nhà máy ở Củ Chi.
Theo chia sẻ của STK, biên lợi nhuận gộp của sợi tái chế khoảng 20% còn sợi thường chỉ 10-11%. Sợi màu chưa đi vào hoạt động, nhưng ước tính cũng đạt được mức 20%.
Đầu ra của các nhà máy sợi này chủ yếu là khách hàng hiện hữu – là các công ty dệt nhuộm, trước yêu cầu của các thương hiệu lớn về việc tăng tỷ trọng các chất liệu bảo vệ môi trường nên họ chuyển một phần sản lượng của họ qua sợi tái chế. Còn với sợi màu, STK chưa vội hành động, năm 2019 sẽ đẩy mạnh hơn.
Phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ
STK có tờ trình phát hành thêm 4,2 triệu cổ phiếu để trả cổ tức, từ nguồn lợi nhuận sau thuế chưa phân phối. Thời điểm phát hành trong năm 2018.
Đồng thời, STK có kế hoạch phát hành 10% cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, với số lượng phát hành 5,99 triệu cổ phần. Giá phát hành không thấp hơn mệnh giá và không cao hơn giá giao dịch cuối phiên được niêm yết tại HOSE trước 1 ngày thông báo chốt quyền. Vốn điều lệ dự kiến sau phát hành đạt 659,3 tỷ đồng.
HĐQT cũng có tờ trình cổ đông về việc hủy bỏ phương án phát hành cổ phiếu ưu đãi cho người lao động (ESOP) đã thông qua vào kỳ họp năm trước, do giá phát hành không hấp dẫn so với thị trường nên khả năng đợt phát hành không thành công.
Đồng thời, xin phát hành cổ phiếu ESOP năm 2018 với tổng lượng phát hành 600.000 cổ phần, với giá phát hành 10.000 đồng/cổ phần. Cán bộ nhân viên mua cổ phiếu đợt này sẽ bị hạn chế chuyển nhượng 50% trong 1 năm đầu tiên và 50% còn lại trong 2 năm kể từ ngày phát hành.
Theo ý kiến của cổ đông, cổ phiếu STK có thanh khoản rất thấp, giá cổ phiếu đi ngang nên để đợt phát hành thành công, tránh pha loãng ảnh hưởng tới cổ đông thì nên ấn định giá phát hành là 10.000 đồng/cp, cổ đông cũng có thể chủ động cân nhắc quyết định đầu tư hơn.
Ban chủ tọa STK ghi nhận ý kiến cổ đông và chia sẻ thêm rằng, HĐQT cũng đã xây dựng các kịch bản giá phát hành như giá 10.000 đồng; 12.000 đồng; 13.000 đồng cho thấy mức pha loãng chênh lệch không đáng kể; hệ số nợ/VCSH cũng vậy nhưng dòng tiền mặt về công ty có thay đổi đáng kể hơn. Còn đối vơi CBCNV, những người hiểu hoạt động của DN cũng đang rất hào hứng với cổ phiếu ESOP.
Về vấn đề thanh khoản cổ phiếu, ông Hòa cho biết đây là vấn đề HĐQT trăn trở và cũng đã có kế hoạch đẩy mạnh hơn nữa công tác quan hệ nhà đầu tư nhằm giúp nhà đầu tư hiểu hơn về hoạt động Công ty, gia tăng thanh khoản qua đó phản ánh đúng hơn giá trị thực của Công ty.
Kết thúc phiên giao dịch ngày 17/4, STK đứng ở mức giá tham chiếu 15.300 đồng với chỉ 31.370 đơn vị được khớp.
Phan Hằng
ĐHĐCĐ STK: Kế hoạch phát hành 1% cổ phiếu ESOP, quý I lãi 40 tỷ
Sáng nay (17/4), Công ty cổ phần Sợi Thế Kỷ (Mã: STK) tổ chức họp đại hội đồng cổ đông thường niên 2018 và thông qua hết các nội dung HĐQT trình lên.
Ông Đặng Triệu Hòa, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc cho biết thị trường dệt may toàn cầu 2017 đang phục hồi, trong đó Việt Nam có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất. Trong giai đoạn 2008 – 2016, tổng tiêu thụ sợi dài polyester toàn cầu đã tăng trung bình 7,3%/năm trong khi tốc độ tăng trưởng sợi cotton là 0,2%/năm và sợi ngắn là 2,4%/năm. Các đơn hàng dệt may từ Trung Quốc có sự chuyển dịch qua Việt Nam.
Đồng thời, tiềm năng tăng trưởng của CPTPP và EVFTA rất lớn, tạo điều kiện cho ngành dệt sợi. Trong CPTPP tuy không có Mỹ nhưng nhiều thị trường khác cũng có tiềm năng tốt, vào khoảng 40 tỷ USD/năm như Canada (13,26 tỷ USD), Mexico (10,2 tỷ USD), Australia (8,66 tỷ đồng). Chưa kể, thị phần của Việt Nam trong tổng nhập khẩu dệt may của các nước CPTPP còn thấp, chiếm 2,7% của Australia, 5% của Canada, 2% của Mexico…
HĐQT trình cổ đông kế hoạch kinh doanh năm 2018 với doanh thu thuần 2.354 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế 125,8 tỷ đồng; tăng lần lượt 18% và 26% kết quả thực hiện năm trước. Sản lượng đạt khoảng 59.620 tấn, tăng 11%. Doanh thu tăng nhiều hơn sản lượng vì STK tập trung vào nhiều sản phẩm có chất lượng cao hơn, do đó giá bán cao hơn, bình quân tăng 7%, giá chip bình quân tăng 5%.
Về việc phân phối lợi nhuận, STK dự kiến chia cổ tức 15%, trong đó 8% bằng tiền và 7% bằng cổ phiếu. Để thực hiện chia cổ tức 7%, STK dự kiến phát hành gần 4,2 triệu cổ phiếu từ nguồn lợi nhuận sau thuế chưa phân phối. Thời điểm phát hành trong năm 2018.
Ngoài ra, HĐQT trình phát hành 10% cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, với số lượng phát hành 5,99 triệu cổ phần. Giá phát hành không thấp hơn mệnh giá và không cao hơn giá giao dịch cuối phiên được niêm yết tại HOSE trước 1 ngày thông báo chốt quyền. Vốn điều lệ dự kiến sau phát hành đạt 659,3 tỷ đồng.
HĐQT trình cổ đông hủy phương án phát hành ESOP đã được thông qua tại ĐHĐCĐ 2017 do khả năng không thành công, giá phát hành không hấp dẫn so với giá thị trường.
HĐQT trình phương án phát hành mới với số lượng dự kiến 600.000 cổ phần, giá 10.000 đồng/cp. Cán bộ nhân viên mua cổ phiếu đợt này sẽ bị hạn chế chuyển nhượng 50% trong 1 năm đầu tiên và 50% còn lại trong 2 năm kể từ ngày phát hành.
Năm 2017, STK đã đưa nhà máy Trảng Bàng 4 vào hoạt động, nâng công suất 2017 lên 60.000 tấn sợi/năm; ký hợp đồng sản xuất sợi màu với E.DYE vào tháng 2, chính thức đi vào sản xuất trong quý III – IV/2018; ký hợp đồng sản xuất sợi tái chế với Unifi vào tháng 1.
Ngoài ra, STK cũng đã triển khai dự án Trảng Bàng 5, dự kiến đưa vào vận hành từ tháng 9/2018. Tổng vốn đầu tư khoảng 130 tỷ đồng, đã đầu tư 12,5 tỷ đồng trong năm 2017 và còn cần đầu tư 117 tỷ đồng năm 2018.
Lợi nhuận quý I đạt 40 tỷ đồng
Thảo luận
Đề nghị nên ấn định giá phát hành 10% cổ phiếu tăng vốn ở mức 10.000 đồng/cp?
Ông Đặng Triệu Hòa: Hi vọng năm nay STK sẽ vượt kế hoạch chỉ tiêu lợi nhuận. Thời gian phát hành vào khoảng tháng 7 – 8, lúc đó đã có kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm. Thời điểm đó được hỗ trợ bởi tin kết quả kinh doanh tốt thì giá cổ phiếu có thể sẽ được cải thiện. Bản thân tôi cũng là cổ đông lớn hiện hữu của công ty, do đó tôi cũng luôn cân nhắc về giá cổ phiếu phát hành.
Giá cổ phiếu từ năm ngoái tới năm nay không có diễn biến tốt thì năm nay lại phát hành ESOP có thực hiện được không, hay lại bị hủy?
Mệnh giá phát hành 10.000 đồng/cp thì khá hấp dẫn với cán bộ nhân viên. Ngoài ra cán bộ nhân viên năm 2017 đã thấy sự phát triển của công ty và họ khá hào hứng để mua.
Kế hoạch mở rộng của STK vào các thị trường mới và tiếp cận các thị trường CPTPP?
CPTPP chủ yếu tập trung vào may mặc, Việt Nam thì mạnh về vải và sợi trong khi các nước khác không mạnh. Việt Nam vì vậy hưởng lợi gián tiếp và tiêu thụ trong nước của STK sẽ tăng thêm. Các đơn hàng đi Úc, Canada… cũng sẽ tăng thêm.
Cơ chế kiểm soát giá nguyên liệu trong tình huống giá dầu tiếp tục tăng?
Giá dầu tăng thì giá nguyên liệu tăng và giá sợi cũng sẽ tăng theo đó.
Theo Nghị định mới không được kiêm nhiệm Chủ tịch và TGĐ. STK chuẩn bị gì?
HĐQT đang có kế hoạch, có 1 số ứng viên tiềm năng cho TGĐ. Tôi có thể giữ lại chức Chủ tịch HĐQT. Ứng viên này có kinh nghiệm nhiều năm trong ngành dệt nhuộm.
Kế hoạch mở rộng thị phần của STK khi cạnh tranh với các đối thủ khác?
Chỉ có Formosa và một công ty ở Nhơn Trạch đang là đối thủ của STK. Hai bên hướng đến sản phẩm chất lượng cao nên cạnh tranh về chất lượng sợi và giá. STK có điểm mạnh cạnh tranh, xác định ngay từ đầu là phân khúc sản phẩm cao cấp, công nghệ sản xuất từ châu Âu. Về việc tăng thị phần, năm 2018 – 2019, STK tập trung vào chất hơn là lượng. Với quy mô 60.000 tấn/năm, tương đương khoảng 2.000 tỷ doanh thu, do đó STK sẽ tăng cường chất, các sản phẩm có tính năng hơn, mang GTGT cao hơn.
Đến 2019, khi thuận lợi, STK sẽ đầu tư thêm nhà máy vào 2020. Bán thêm nhiều hơn chưa chắc tăng lợi nhuận, nhưng cùng số lượng mà giá cao hơn thì lợi nhuận sẽ cao hơn.
Kết quả kinh doanh quý I? Triển vọng kết quả kinh doanh năm 2018?
Lợi nhuận quý I đạt 40 tỷ đồng, vượt 33% kế hoạch quý. Các quý sau cũng sẽ có kết quả khả quan, tỷ giá chưa có biến động nhiều, giả sử cuối năm có biến động thì sẽ có dự phòng. Nếu 4 quý đều tốt như quý I thì có thể đạt lợi nhuận 160 tỷ đồng. Giả sử có dự phòng tỷ giá khoảng 20 tỷ đồng thì lãi cả năm vẫn khoảng 140 tỷ đồng trên kế hoạch là 126 tỷ đồng.