Dệt may với CPTPP: Xuất khẩu khó về xuất xứ, nhập khẩu khó về nguyên liệu
Dệt may với CPTPP: Xuất khẩu khó về xuất xứ, nhập khẩu khó về nguyên liệu


Phan Vũ
Việt Nam thuộc top 3 thế giới về xuất khẩu hàng dệt may
Ông Trương Văn Cẩm, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), nhận định ngành dệt may Việt Nam có bước phát triển vượt bậc trong khoảng 30 năm nay trở lại đây.
Năm 2018, Việt Nam xuất khẩu 36,2 tỷ USD hàng dệt may đi các thị trường, tăng 16% so với năm 2019 và tăng từ mức 55 triệu USD của năm 1995, và trở thành một trong những cường quốc xuất khẩu hàng dệt may. VITAS dự báo con số này sẽ tăng lên 40 tỷ USD trong năm 2019 nhờ Hiệp định CPTPP có hiệu lực.
Ông Vương Đức Anh, trợ lý tổng giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) nhận định Việt Nam đang bám sát Ấn Độ về xuất khẩu dệt may và hiện nằm trong top 3 thế giới về xuất khẩu mặt hàng này.
“Trong khi đó, các nước xuất khẩu dệt may lớn của thế giới như Trung Quốc lại tăng trưởng dưới 5%, hay như Ấn Độ và Bangladesh giảm lần lượt 2% và 3,7%”, ông Đức Anh cho biết tại Hội thảo “Xu hướng thay đổi và thách thức đối với ngành dệt may Việt Nam” ngày 10/4.
Năm 2018, kinh tế Việt Nam tăng trưởng ổn định, nhưng tình hình thế giới có nhiều biến động khó lường. Điều này tác động rất lớn đến những ngành hướng tới xuất khẩu như dệt may. “Chiến tranh thương mại khiến giá bán sợi giảm. Khi đàm phán giữa hai bên có nhiều tín hiệu tích cực, giá sợi mới bắt đầu phục hồi”.
Một yếu tố khác là chính sách tiền tệ của thế giới. “Năm 2018, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ tăng lãi suất 4 lần, khiến các nước khác cũng tăng lãi suất theo. Lãi suất tăng khiến hàng Việt Nam kém cạnh tranh hơn do ảnh hưởng từ tỷ giá của tiền đồng”, ông Đức Anh chia sẻ.
Về cơ cấu doanh nghiệp, ông Đức Anh cho rằng Sau khoảng 5 – 10 năm nữa, con số này sẽ thay đổi, số doanh nghiệp làm xơ sợi hoàn tất sẽ tăng lên.
Xuất khẩu khó về xuất xứ, nhập khẩu khó về nguyên liệu
Ngành dệt may Việt Nam phát triển khá nhanh nhưng bắt đầu lộ diện nhiều điểm yếu khi tham gia Hiệp định CPTPP và EVFTA. Hai hiệp định này đặt ra yêu cầu khắt khe về quy tắc xuất xứ, trong đó CPTPP quy định xuất xứ từ sợi và EVFTA quy định xuất xứ từ vải phải nhập từ các quốc gia thuộc CPTPP mới được hưởng ưu đãi thuế quan.
“Đây chính là điểm yếu của ngành dệt may Việt Nam. Nếu không đáp ứng được yêu cầu về xuất xứ thì doanh nghiệp cũng không thể tận dụng được tối đa lợi thế của các hiệp định thương mại tự do”, ông Trương Văn Cẩm phát biểu
Ngành dệt may Việt Nam phát triển khá nhanh nhưng bắt đầu lộ diện nhiều điểm yếu khi tham gia Hiệp định CPTPP và EVFTA.Ảnh: Báo Đầu tư.
Đồng tình với quan điểm của ông Cẩm, ông Vương Đức Anh, trợ lý tổng giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex), cho biết Việt Nam xuất khẩu xơ sợi đạt 4 tỷ USD nhưng vẫn phải nhập khẩu vải 2,7 tỷ USD. Nguồn vải của dệt may phụ thuộc khá lớn vào nhập khẩu từ bên ngoài, phần lớn là từ các nước bên ngoài CPTPP.
“Nếu toàn bộ sợi của Việt Nam dùng hết cho ngảnh vải thì sẽ tạo ra giá trị gia tăng lớn cho ngành dệt may Việt Nam”, ông Đức Anh cho biết.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy sợi của Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu để sản xuất hàng chất lượng cao.
Dư địa xuất khẩu hàng dệt may vào CPTPP rất lớn
Nói về các hiệp định thương mại tự do, đại diện của Vinatex cũng như phó chủ tịch VITAS đều cho rằng CPTPP sẽ là động lực giúp ngành dệt may Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, cũng như liên kết chặt chẽ hơn ở thị trường trong nước.
Dung lượng thị trường dệt may của CPTPP là 83 tỷ USD, với hàng dệt may của Việt Nam xuất sang các nước thành viên hiện đạt 5,3 tỷ USD, chiếm 6,3%. Trong đó, khoảng 4 tỷ USD là xuất khẩu sang Nhật Bản. Tuy nhiên, thị phần của hàng dệt may Việt Nam tại thị trường 40 tỷ USD này chỉ là 10%, thấp hơn nhất nhiều so với Trung Quốc (72,6%).
Tương tự, thị phần của Việt Nam tại Canada chỉ 5% trong khi nhu cầu hàng dệt may của thị trường này là 13 – 14 tỷ USD. Tại Australia và Mexico với nhu cầu lầm lượt là 9 tỷ USD và 10 tỷ USD, hàng dệt may của Việt Nam cũng chỉ chiếm 2,3%.
“Vì vậy, dư địa gia tăng xuất khẩu vào thị trường CPTPP rất lớn”, theo nhận định của ông Đức Anh.
Về ngắn hạn, CPTPP tạo ra thách thức đối với doanh nghiệp may do các doanh nghiệp này đang phụ thuộc vào nguồn vải nhập khẩu từ bên ngoài CPTPP. Hiện CPTPP chỉ cung cấp được khoảng 7,6%, tương đương 1,3 tỷ USD lượng sợi, vải trong tổng nhu cầu 18 tỷ USD của Việt Nam.
Về dài hạn, CPTPP hay EVFTA được kỳ vọng sẽ tạo ra quy mô thị trường đủ lớn để kích thích doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu vào lĩnh vực dệt, nhuộm hoàn tất, hình thành chuỗi liên lết trong ngành dệt may từ ngành sợi đến ngành vải và ngành may.
Việt Nam đang bám sát Ấn Độ về xuất khẩu dệt may và hiện nằm trong top 3 thế giới về xuất khẩu mặt hàng này. Ảnh: Đại Đoàn Kết.
Trên thực tế, từ thời điểm Hiệp định TPP kết thúc đàm phán vào năm 2015, số dự án FDI vào ngành dệt may đạt kỷ lục 197 dự án với tổng vốn đăng ký gần 2,6 tỷ USD, theo thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư). Mặc dù có giảm vào năm 2017, FDI vào dệt may sau đó có xu hướng phục hồi, với 146 dự án và tổng vốn đăng ký đạt 1,7 tỷ USD trong 2018.
Theo ông Đức Anh, để tận dụng được tối đa ưu đãi thuế quan từ CPTPP hay EVFTA, doanh nghiệp dệt may của Việt Nam phải hình thành được chuỗi liên kết. Việc này cũng sẽ giúp giảm thiểu tác động tiêu cực khi thị trường biến động, đặc biệt là khi tăng trưởng kinh tế thế giới chậm lại và xung đột thương mại Mỹ – Trung chưa có hồi kết.
Một thách thức lớn khác mà doanh nghiệp Việt Nam phải giải quyết là môi trường. “Dệt may là một trong những ngành có thể gây ô nhiễm môi trường. Nếu muốn phát triển bền vững trong dài hạn, doanh nghiệp nói riêng và toàn ngành dệt may nói chung phải giải quyết vấn đề môi trường, tiết kiệm năng lượng”, Phó chủ tịch VITAS bổ sung.
Việt Nam hiện có khoảng 6.000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dệt may. Tuy nhiên, số lượng các doanh nghiệp gia công chiếm tới 85%, trong khi doanh nghiệp vải, nhuộm hoàn chỉ chiếm 13%.
http://ndh.vn/det-may-voi-cptpp-xuat-khau-kho-ve-xuat-xu-nhap-khau-kho-ve-nguyen-lieu-20190410092528808p150c171.news
Họp ĐHCĐ STK: Quý I lãi tăng 27%, kế hoạch cả năm tương đối bảo thủ
(NDH) Riêng quý I, Sợi Thế Kỷ đã lãi 51 tỷ nhưng kế hoạch lợi nhuận cho cả năm là 199,5 tỷ đồng. Theo công ty, kế hoạch năm nay tương đối bảo thủ do các yếu tố bên ngoài mà công ty không thể quyết định được.
Sáng 2/4, CTCP Sợi Thế Kỷ (HoSE: STK) họp ĐHĐCĐ thường niên năm 2019 để thảo luận về kế hoạch kinh doanhh năm 2018, phân phối lợi nhuận…
Đặt kế hoạch lãi gần 200 tỷ đồng
Đại hội đã thông qua kế hoạch năm 2019 với chỉ tiêu doanh thu 2.603 tỷ đồng, tăng 8% so với thực hiện 2018. Lợi nhuận sau thuế ước đạt 199,5 tỷ đồng, tăng 12%.
Năm 2018, Sợi Thế Kỷ ghi nhận doanh thu 2.408 tỷ đồng, tăng 21% so với năm 2017. Lợi nhuận sau thuế đạt 178 tỷ đồng, tăng 79% và vượt 42% kế hoạch năm.
Với lợi nhuận đó, công ty đã thông qua phương án phân phối lợi nhuận năm 2018 trong đó chia cổ tức bằng tiền mặt tỷ lệ 15%, tương đương số tiền chi ra khoảng 106 tỷ đồng.
Hội đồng Quản trị (HĐQT) cũng trình cổ đông để xem xét, thông qua việc điều chỉnh mục đích sử dụng vốn từ đợt phát hành cho cổ đông hiện hữu tỷ lệ 10%. Mục đích trước đó là để sử dụng cho Dự án Trảng Bàng 5. Tuy nhiên vì một số lý do mà việc phát hành kéo dài. Trong khi đó, vốn huy động cho dự án Trảng Bàng 5 đã được công ty giải quyết đúng thời hạn, nên số tiền thu được từ đợt phát hành sẽ dùng để bổ sung vốn kinh doanh.
Phiên họp ĐHĐCĐ Sợi Thế Kỷ. Ảnh: L.H.
Thảo luận
– Xin công ty cho biết ước kết quả quý I. Thị trường Hoa Kỳ sẽ tận dụng như thế nào?
– Chủ tịch Đặng Triệu Hòa: Con số ước tính cho quý I là doanh thu 605 tỷ và lợi nhuận sau thuế khoảng 51 tỷ đồng. So với cùng kỳ 2017 thì doanh thu tăng 3% và lợi nhuận tăng 27%.
Mỹ hiện có áp thuế 10% lên hàng hoá Trung Quốc, trong đó có sản phẩm sợi. Các doanh nghiệp Mỹ đang kiện Trung Quốc bán phá giá. Dự kiến việc khởi xướng điều tra việc bán phá giá vào khoảng tháng 4 này. Sợi Thế Kỷ cho rằng đây là cơ hội để vào thị trường Mỹ, cụ thể là sợi cho xe hơi.
Tổng nhu cầu của mảng ôtô ở Mỹ khoảng 24.000 tấn. Thị trường này được xem là mốt sự chuyển dịch thêm sản phẩm của Sợi Thế kỷ. Doanh thu và sản lượng mảng này dự kiến chưa nhiều đóng góp cho công ty.
– Sợi tái chế có rào cản gia nhập nào?
– Về nguyên liệu cung cấp, nguyên liệu cho sợi tái chế chủ yếu là từ rác nhawmg giúp sức cho việc giảm rác. Những nhà thu rác và sản xuất phải có kiểm định, công nhận của các bên thẩm định thứ 3, phải có máy móc, nguồn cung.
– So sánh giá vốn, giá bán với đối thủ. Công suất sử dụng, năng suất ra sao?
– Về giá bán, so với đối thủ lớn nhất là Formusa thì giá bán của STK thấp hơn 2-3%. Tuy nhiên, giá vốn d formusa có thể sẽ cao hơn.
Công suất tối đa của Sợi Thế Kỷ 93%, còn 7% là thời gian bảo dưỡng. Năng suất lao động so với cùng ngành trong nước thì cao hơn nhưng vẫn thấp hơn các doanh nghiệp cùng ngành ở Đài Loan.
– Sợi màu giá bán bao nhiêu và đóng góp bao nhiêu. Xin chia sẻ về liên minh sợi dệt nhuộm?
– Sợi màu hiện chưa đưa vào kế hoạch kinh doanh năm nay bởi công suất nhỏ. Sợi màu có chi phí sản xuất cao và giá bán cũng cao hơn sợi thông thường. Sản phẩm hiện chủ yếu sợi màu đen với công suất khoảng hơn 1.000 tấn (doanh số khoảng 2 triệu USD). Lợi nhuận sản phẩm này nếu có cũng chưa nhiều. Trong năm 2020, công ty chuẩn bị 4 dây chuyền thì năng suất gấp 4 lần.
Dự án liên minh dệt có đầu cuối sản phẩm là sportswear và outdoor. Ngành nhuộm hiện không còn tình trạng nút thắt cổ chai, không còn là vấn đề lớn trong chuỗi cung ứng tại Việt Nam.
– Khả năng cán đích lợi nhuận?
– Quý I là quý khởi đầu nên thường yếu về đơn hàng. Theo đơn hàng đã nhận thì quý II hơn tương đối khá so với quý I. Kế hoạch năm nay tương đối bảo thủ do các yếu tố bên ngoài mà công ty không thể quyết định được nhưng yếu tố bên trong thì công ty quyết định được. Đại hội năm sau công ty hy vọng sẽ báo cáo vượt kế hoạch.
Năm 2020, tính toán kết quả sẽ cao hơn do dịch chuyển sang sản phẩm giá trị gia tăng cao hơn.
http://ndh.vn/quy-dinh-cong-bo-thong-tin-goc-nhin-cua-nhung-nguoi-trong-cuoc-20190402033453528p4c147.news