Các nước xuất khẩu hàng may mặc trong khu vực như Indonesia, Myanmar và Campuchia đang 'đứng ngồi không yên' trước những lợi thế vượt trội của VN.
Là nước xuất khẩu dệt may lớn thứ 4 thế giới, VN đang đứng trước cơ hội tăng thêm bậc ngành này khi được hưởng những ưu đãi mới trong việc tiếp cận thị trường 11 quốc gia thành viên Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và 28 quốc gia thành viên EU theo Hiệp định thương mại tự do (FTA) VN - EU. Các nước này đều là những thị trường lớn với các thương hiệu thời trang hàng đầu thế giới.
Lợi thế của dệt may VN từ TPP và FTA khiến nhiều nước Đông Nam Á đang rất lo lắng - Ảnh: Reuters
TPP cần được Mỹ và các nước thành viên khác phê chuẩn, nên sớm nhất cũng phải đến năm 2017 hiệp định mới được thực thi. Trong khi đó, theo FTA giữa VN và EU, hàng dệt may VN xuất sang khu vực này chỉ được xóa bỏ thuế hoàn toàn sau 7 năm nữa. Mặc dù vậy, các nước sản xuất dệt may lớn ở Đông Nam Á như Myanmar và Campuchia đang rất lo lắng. “Các hiệp định thương mại mà VN đang tham gia sẽ là một mối quan ngại không chỉ đối với Myanmar mà còn cả khu vực”, bà Khine Khine Nwe, Tổng thư ký Hiệp hội Các doanh nghiệp may mặc Myanmar, nói với tờ Nikkei Asian Review.
Ngành dệt may đóng vai trò quan trọng trong kế hoạch trở thành nền kinh tế sản xuất của Myanmar và các công ty sản xuất hàng may mặc nước này hiện xem châu Âu vừa là thị trường vừa là nhà đầu tư. Hồi năm 2013, EU đã cắt giảm thuế suất đối với hàng xuất khẩu từ Myanmar trong khuôn khổ chương trình tiếp cận thị trường dành cho các nước kém phát triển. EU là một thị trường quan trọng của ngành dệt may Myanmar, chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may của nước này và tỷ lệ đó được dự đoán sẽ tiếp tục gia tăng trong thời gian tới.
Nhờ chương trình giảm thuế tương tự, Campuchia cũng đã tăng kim ngạch xuất khẩu sang châu Âu từ mức 28% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may hồi năm 2011 lên 42% vào năm 2014. Tuy nhiên, các doanh nghiệp dệt may Campuchia lo ngại thị phần xuất khẩu sang châu Âu sẽ sụt giảm khi khu vực này sẽ dần hạ mức thuế cho hàng dệt may VN từ 11,7% hiện nay xuống còn 0%.
Dệt may là một trụ cột của nền kinh tế Campuchia. Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), ngành này có hơn 700.000 lao động và chiếm 5,3 tỉ USD, tức khoảng 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của Campuchia trong năm 2014. Trong một cuộc phỏng vấn mới đây với Nikkei Asian Review, ông Ken Loo, Tổng thư ký Hiệp hội Các doanh nghiệp may mặc Campuchia, thừa nhận ngành dệt may nước này đã mất thị phần ở Mỹ vào tay VN, nước có chi phí nhân công thấp hơn nhưng năng suất lao động cao hơn Campuchia.
“Nếu chúng tôi không thể cạnh tranh ngay cả trong điều kiện hiện tại thì khi TPP đến, làm sao chúng tôi cạnh tranh nổi? Câu trả lời là: Chúng tôi thực sự lo lắng”, ông Loo nói.
Giới chuyên gia dự báo TPP sẽ giúp hàng may mặc VN tăng thị phần tại Mỹ từ mức 10% hiện tại lên 35%. Để đón đầu hiệp định này, hồi tháng 3 năm ngoái, tập đoàn dệt may lớn nhất nước là Vinatex đã khởi công xây dựng khu liên hợp sợi - dệt - nhuộm - may với tổng vốn đầu tư lên đến 1.200 tỉ đồng tại H.Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Dự kiến dự án này sẽ được đưa vào hoạt động trong năm 2017.
Nhằm đối phó với sự cạnh tranh gay gắt từ VN, Indonesia, quốc gia đang xuất khẩu 50% hàng dệt may sang Mỹ và EU, hồi tháng 10.2015 đã quyết định hạ thuế đối với điện tiêu thụ vào ban đêm nhằm giúp giảm chi phí sản xuất cho doanh nghiệp.
“Vấn đề lớn nhất (của ngành dệt may) là chi phí điện năng quá cao. Tiếp đó là những khó khăn trong việc tiếp cận thị trường châu Âu và Mỹ. Nếu chúng tôi khắc phục được hai vấn đề này, tăng trưởng xuất khẩu có thể đạt mức hai con số”, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Indonesia Ade Sudrajat nói với Nikkei Asian Review.
Mặc dù quy mô của nền kinh tế Indonesia lớn gấp 4 lần VN, tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu của VN sang EU ngày càng tăng, đạt 22,2 tỉ euro trong năm 2014. Ngược lại, kim ngạch xuất khẩu của Indonesia đang trên đà tụt giảm và chỉ đạt 14,4 tỉ euro năm 2014.
Lợi thế của VN về thuế suất đối với hàng dệt may từ các điều khoản của TPP và FTA với EU khiến mối lo cạnh tranh không chỉ ở các doanh nghiệp Đông Nam Á mà còn lan sang những quốc gia xuất khẩu dệt may lớn trong khu vực châu Á như Bangladesh và Pakistan.
“VN là một thị trường dệt may mới nổi và đã trở thành một đối thủ đáng gờm đối với ngành dệt may của Pakistan. Sau khi tham gia FTA với EU, VN đã xuất khẩu 23 tỉ USD hàng may mặc sang khu vực này, trong khi Pakistan chỉ xuất được 5 tỉ USD”, báo cáo của Hiệp hội Các nhà sản xuất và xuất khẩu hàng may mặc Pakistan lưu ý.
BNEWS.VN Các nhóm hàng sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam có triển vọng xuất khẩu vào Hàn Quốc tăng trưởng cao có thể kể đến là nông sản, thủy sản và sản phẩm dệt may.
Các đơn vị xúc tiến thương mại, đầu tư Việt Nam - Hàn Quốc ký kết hợp tác. Ảnh: Mỹ Phương-TTXVN
Tại lễ khai trương Trung tâm Hỗ trợ FTA Hàn - Việt tại Việt Nam và hội thảo FTA Hàn - Việt (KVFTA), tổ chức ở Tp. Hồ Chí Minh, ngày 4/3, ông Roh Inho, Phó Chủ tịch Thương Vụ Tổng Lãnh sự quán Hàn Quốc (KOTRA), Phụ trách khối ASEAN và châu Đại Dương cho biết, các hiệp định thương mại tự do đã có tác động lớn, thúc đẩy thu hút đầu tư của nhiều doanh nghiệp Hàn Quốc vào ngành dệt may Việt Nam.
Theo ông Roh Inho, với FTA Hàn - Việt và Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hàn Quốc cam kết từng bước mở cửa thị trường cho trái cây nhiệt đới của Việt Nam, xóa thuế quan đối với sản phẩm dệt may...
Do đó, các nhóm hàng sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam có triển vọng xuất khẩu vào Hàn Quốc tăng trưởng cao có thể kể đến là nông sản, thủy sản và sản phẩm dệt may.
Theo các chuyên gia, hiện tại nguyên nhân chính đưa cán cân thương mại Hàn - Việt mất cân bằng là do tỷ trọng nhập khẩu nguyên phụ liệu từ Hàn Quốc sang Việt Nam rất cao.
Tuy nhiên, việc nhập khẩu từ Hàn Quốc chủ yếu là để cung cấp nguyên phụ liệu đầu vào cho hoạt động sản xuất công nghiệp tại Việt Nam.
Do đó, xem xét ở gốc độ lâu dài, hoạt động nhập khẩu nguyên phụ liệu từ Hàn Quốc vẫn có lợi cho sự phát triển ngành công nghiệp của Việt Nam.
Mặt khác, với việc thực hiện FTA, các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước của Việt Nam sẽ có cơ hội phát triển về quy mô thương mại; đồng thời hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Hàn Quốc sẽ ngày càng mở rộng.
Đánh giá cao sự năng động của các tổ chức xúc tiến Hàn Quốc, trong việc thúc đẩy mối quan hệ hợp tác thương mại, đầu tư cho doanh nghiệp hai nước, bà Nguyễn Thị Thu, Phó Chủ tịch UBND Tp. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, Tp. Hồ Chí Minh luôn là một trong những địa phương dẫn đầu, đón chào các nhà đầu tư, doanh nghiệp nước ngoài.
Vì vậy, sự ra đời của Trung tâm Hỗ trợ FTA Hàn - Việt, là điều kiện thuận lợi để thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư giữa doanh nghiệp hai nước. Đồng thời, thể hiện sự quan tâm của Chính phủ cũng như doanh nghiệp Hàn Quốc đối với môi trường đầu tư, kinh doanh hấp dẫn tại Việt Nam nói chung và Tp. Hồ Chí Minh nói riêng.
Trong khuôn khổ chương trình lần này, Thương Vụ Tổng Lãnh Sự Quán Hàn Quốc (KOTRA), Văn phòng tại Tp. Hồ Chí Minh đã ký kết hợp tác với Trung tâm xúc tiến Thương mại và Đầu tư (ITPC), Khu Công nghệ cao Tp. Hồ Chí Minh về tạo điều kiện thuận lợi trong việc trao đổi thông tin thương mại, đầu tư giữa các bên, qua đó đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam - Hàn Quốc./.
Có 2 mặt hàng trong tháng đầu tiên đã xuất khẩu hơn 2 tỉ USD là điện thoại các loại và linh kiện cùng hàng dệt may. Hai nhóm hàng xuất khẩu trên 1 tỉ USD gồm máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện.
Theo số liệu thống kê mới nhất của Tổng cục Hải quan vừa công bố ngày 23.2, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong kỳ 2 tháng 1.2016 đạt 13,87 tỉ USD, tăng 14,5% tương ứng tăng 1,75 tỉ USD so với kết quả thực hiện trong nửa đầu tháng 1.2016.
Trong đó, xuất nhập khẩu của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đạt kim ngạch 8,6 tỉ USD, tăng 12,7% tương ứng tăng 968 triệu USD so với nửa đầu tháng 1.2016.
Theo đó, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước trong tháng đầu tiên năm 2016 đạt 25,96 tỉ USD, giảm 6% tương ứng giảm 1,64 tỉ USD so với cùng kỳ năm 2015. Trong đó, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của doanh nghiệp đạt gần 16,22 tỉ USD, giảm 6,6% tương ứng giảm 1,16 tỉ USD so với cùng kỳ năm 2015.
Đặc biệt, có 2 mặt hàng trong tháng đầu tiên đã xuất khẩu hơn 2 tỉ USD là điện thoại các loại và linh kiện cùng hàng dệt may. Cụ thể, xuất khẩu của điện thoại các loại và linh kiện đạt 2,27 tỉ USD, tăng 31,4% so với tháng 12.2015. Những đối tác chính mà VN xuất khẩu các mặt hàng này trong tháng là EU với 714 triệu USD, chiếm 31,4% tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước. Tiếp theo là Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Mỹ, Áo...
Ngoài ra, có hai nhóm sản phẩm cũng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỉ USD gồm máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện được 1,25 tỉ USD. Trong đó, EU là thị trường xuất khẩu lớn nhất nhóm sản phẩm này. Nhóm giày dép các loại xuất khẩu được 1,18 tỉ USD và Mỹ là thị trường lớn nhất.
Trong kỳ 2 tháng 1.2016, cán cân thương mại hàng hóa cả nước thặng dư 996 triệu USD, với kết quả đó, cán cân thương mại hàng hóa cả nước thặng dư ngay trong tháng đầu tiên của năm và đạt mức 765 triệu USD.
Về xuất khẩu, tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam trong kỳ 2 tháng 1.2016 đạt 743 tỉ USD, tăng 24,9% (tương ứng tăng 1,48 tỉ USD về số tuyệt đối) so với kỳ 1 tháng 1.2016.
Như vậy, tính đến hết tháng 1.2016, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 13,36 tỉ USD giảm 1% tương ứng giảm 133 triệu USD so với cùng kỳ năm 2015.
Số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cũng cho thấy trị giá xuất khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp FDI trong kỳ 2 tháng 1.2016 đạt 4,95 tỉ USD, tăng 21% tương ứng tăng 858 triệu USD so với kỳ 1 tháng 1.2016, qua đó nâng tổng kim ngạch xuất khẩu trong tháng 1.2016 của nhóm các doanh nghiệp này lên 9,04 tỉ USD, giảm nhẹ 0,2% so với tháng trước và giảm 0,9% so với cùng kỳ năm trước.
Về nhập khẩu, tổng trị giá hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam trong kỳ 2 tháng 1.2016 đạt 6,44 tỉ USD, tăng 4,4% (tương ứng tăng 271 triệu USD về số tuyệt đối) so với kết quả thực hiện trong kỳ 1 tháng 1.2016.
Tính đến hết tháng 1.2016, tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước đạt gần 12,6 tỉ USD, giảm 10,7% (tương ứng giảm 1,51 tỉ USD) so với tháng 1.2015.
ông Yasuzumi Hirotaka chia sẻ thông tin về khảo sát của JETRO trên màn hình chiếu với phóng viên tại TPHCM - Ảnh: Quốc Hùng
(TBKTSG Online) - Có đến 63,9% số doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam được khảo sát cho biết có xu hướng muốn mở rộng hoạt động kinh doanh, một tỷ lệ cao nhất so với các doanh nghiệp Nhật đang đầu tư ở 19 quốc gia và vùng lãnh thổ khác.
Kết quả trên được ông Yasuzumi Hirotaka, Trưởng đại diện Văn phòng Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) tại TPHCM, công bố dựa trên một khảo sát mới nhất về thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhật Bản tại châu Á và châu Đại Dương năm 2015 được công bố vào ngày hôm nay, 23-2.
Ưu tiên mở rộng đầu tư, nhưng...
Theo ông Hirotaka, dù tỷ lệ doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư tại Việt Nam làm ăn năm ngoái có lãi chiếm 58,8%, giảm 3,5 điểm phần trăm so với năm 2014, và số doanh nghiệp báo lỗ chiếm 26,2%, tăng 1,3 điểm phần trăm so với năm trước, nhưng Việt Nam vẫn tiếp tục được coi là điểm đầu tư quan trọng mà doanh nghiệp nước này muốn mở rộng đầu tư, kinh doanh.
Lý do chính mà nhiều doanh nghiệp xứ hoa anh đào muốn mở rộng kinh doanh ở Việt Nam, theo ông Hirotaka, là vì phần lớn (85%) cho rằng doanh thu tăng và gần 50% lượng doanh nghiệp Nhật hoạt động ở Việt Nam nhận định khả năng tăng trưởng và tiềm năng cao. Đáng chú ý là trong khối doanh nghiệp phi chế tạo, có 65% đánh giá khả năng tăng trưởng và tiềm năng cao hoạt động kinh doanh ở Việt Nam.
Khảo sát của JETRO năm 2014 cho thấy doanh nghiệp Nhật đầu tư ở Indonesia có tỉ lệ doanh nghiệp muốn mở rộng hoạt động kinh doanh nhiều nhất đạt 67,3% thì khảo sát mới nhất này cho thấy đất nước vạn đảo này bị lùi về vị trí thứ ba, chỉ đạt tỉ lệ 51,9%, thấp hơn tỉ lệ doanh nghiệp Nhật Bản ở Philippines muốn mở rộng hoạt động kinh doanh (đạt 55,1%). Trong khi đó, tỷ lệ nhà đầu tư Nhật Bản ở Trung Quốc cho biết sẽ mở rộng hoạt động kinh doanh chỉ đạt 38,1%, thấp hơn tỷ lệ doanh nghiệp Nhật hoạt động ở Thái Lan (49%) và Malaysia (44,6%)...
Đánh giá về lợi thế môi trường đầu tư của Việt Nam, ông Hirotaka cho rằng các doanh nghiệp Nhật Bản tiếp tục xem Việt Nam có nhiều lợi thế, nhất là chi phí nhân công rẻ. Chi phí nhân công của Việt Nam so với một số quốc gia khác là tương đối thấp, đặc biệt chi phí trong ngành công nghiệp chế tạo chưa bằng một nửa so với Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia.
Gần 70% doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam cũng đang kỳ vọng về "thuận lợi hóa thương mại và thuế quan" khi Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) có hiệu lực. Việt Nam cũng là nước mà nhiều doanh nghiệp Nhật Bản được khảo sát cho thấy họ kỳ vọng nhiều nhất về vấn đề này. Họ cũng kỳ vọng cao về việc tiếp cận thị trường hàng hóa, quy tắc xuất xứ, thương mại điện tử của Việt Nam khi TPP có hiệu lực.
Mặc dù vậy, nhiều doanh nghiệp Nhật cũng cho thấy nhiều yếu kém của môi trường đầu tư Việt Nam hiện nay mà họ cho rằng sẽ dẫn đến các rủi ro trong đầu tư kinh doanh. Trên 60% doanh nghiệp cho rằng hệ thống pháp luật Việt Nam chưa hoàn thiện, vận hành thiếu minh bạch. Và hơn một nửa số doanh nghiệp cho rằng chi phí nhân công của Việt Nam đang tăng cao, cơ chế, thủ tục thuế phức tạp.
JETRO khảo sát trên 9.590 doanh nghiệp Nhật Bản tại 20 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có 4.635 doanh nghiệp đã đưa ra trả lời. Tại Việt Nam là có 1.027 doanh nghiệp Nhật Bản được khảo sát, trong đó 557 doanh nghiệp trả lời hợp lệ.
Việt Nam đứng ở vị trí thứ 5 trong 15 quốc gia có rủi ro cao về "thủ tục hành chính phức tạp".
Tình hình cung ứng nguyên vật liệu, linh kiện của Việt Nam hiện nay theo các doanh nghiệp Nhật Bản là có cải thiện hơn 5 năm trước nhưng rất chậm (chỉ tăng gần 10%), đạt 32,1%. Tỷ lệ này còn khá thấp so với các nước khác như Malaysia đạt (36%), Indonesia (40,5%), Thái Lan (55,5%) và Trung Quốc đạt 64,8%.
Ông Hirotaka kiến nghị Chính phủ cần hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam nhiều hơn nữa trong việc tiếp cận vốn vay, kỹ thuật, đào tạo... để những doanh nghiệp này có thể tiếp cận máy móc, kỹ thuật...nâng cao năng lực cạnh tranh, nhằm có thể trở thành nhà cung cấp cho nhà sản xuất đầu tư, lắp ráp tại Việt Nam. Bởi lẽ theo ông Hirotaka, khảo sát của doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam cho thấy chi phí lớn nhất trong sản xuất hiện nay của họ ở Việt Nam là chi phí cho nguyên vật liệu chiếm đến 57,7%, trong khi chi phí nhân công là lợi thế ở Việt Nam chỉ chiếm 19% và các chi phí khác chiếm 23,3%.
Đầu tư Nhật giảm, nhưng ổn định
Mặc dù xét trong ba năm qua cho thấy đầu tư vào Việt Nam của Nhật Bản có sự sụt giảm về vốn đầu tư, nhưng ông Yasuzumi Hirotaka cho rằng đầu tư của doanh nghiệp Nhật Bản vào Việt Nam mang tính ổn định hơn một số nước khác.
Theo người đứng đầu của JETRO tại TPHCM, một phần của việc suy giảm nguồn vốn đầu tư này là do đồng yen của Nhật trong những năm này bị sụt giảm so với đồng đô la Mỹ và kinh tế Nhật khó khăn, nên doanh nghiệp Nhật đã cân nhắc hơn khi quyết định đầu tư mới hoặc mở rộng sản xuất.
Phần lớn đầu tư của doanh nghiệp Nhật vào Việt Nam trong những năm gần đây chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa với quy mô đầu tư nhỏ. Mặt khác, các dự án đầu tư mới từ Nhật vào Việt Nam thì tỷ lệ ngành công nghiệp chế tạo giảm về số dự án và đang có xu hướng gia tăng về các dự án trong ngành dịch vụ, thương mại trong khi những lĩnh vực này thì vốn đầu tư không cần nhiều bằng các dự án sản xuất.
Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam bị suy giảm. Ông Hirotaka cho rằng nhiều doanh nghiệp Nhật Bản hiện rất quan tâm đến môi trường đầu tư Việt Nam. Cụ thể so sánh môi trường đầu tư trong khu vực Đông Nam Á hiện nay có thể thấy Indonesia có sự gia tăng chính sách bảo hộ cho các doanh nghiệp nội địa, Thái Lan đưa ra những thay đổi về chính sách đầu tư và Việt Nam nổi bật lên là môi trường đầu tư tiềm năng nhờ khuyến khích đầu tư nước ngoài và hội nhập sâu rộng. Ngày càng nhiều các nhà đầu tư nhỏ và vừa của Nhật vào Việt Nam.
Theo ông Hirotaka, trong năm qua đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam đứng vị trí thứ 3 về số vốn đầu tư FDI, đạt 1,842 tỉ đô la Mỹ, chỉ thấp hơn vốn đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp Hàn Quốc (đạt 6,727 tỉ đô la Mỹ) và Malaysia (đạt 2,478 tỉ đô la Mỹ).
Tuy nhiên ông Hirotaka cho rằng xu hướng đầu tư của doanh nghiệp Nhật Bản vào Việt Nam cho thấy ổn định do không dựa vào 1 hoặc 2 dự án tạo nên sự gia tăng đột biến về vốn đầu tư.
Ông Hirotaka cho rằng đầu tư của Nhật Bản hiện không có dự án nào có quy mô quá lớn tạo nên sự gia tăng vốn đầu tư đột biến nên rủi ro sẽ không cao. Bởi lẽ, một dự án quy mô lớn thường kéo theo các nhà sản xuất vệ tinh đi cùng và tạo việc làm khá lớn cho người lao động địa phương. Tuy nhiên, nếu hoạt động của dự án đó không thuận lợi thì có khả năng sẽ kéo theo rất nhiều những dự án khác bị hệ lụy theo và lao động mất việc cao.
Hiện đầu tư của Nhật vào Việt Nam chủ yếu vào các ngành như chế tạo, phân phối bán lẻ, công nghệ thông tin (IT), tư vấn... Tuy nhiên tỷ lệ khối chế tạo năm qua tiếp tục giảm so với năm trước. Tỷ lệ ngành phân phối bán lẻ, IT, tư vấn tăng nhẹ so với năm trước. Ngoài ra, số dự án đầu tư cho ngành khách sạn, ăn uống tăng do ảnh hưởng của việc nới lỏng quy chế đầu tư nước ngoài đối với ngành này từ năm 2015. Một điểm đáng chú ý theo ông Hirotaka đó là đầu tư của Nhật Bản có chiều hướng gia tăng trong lĩnh vực nông nghiệp.