Việc nhập khẩu tới 42% nguyên phụ liệu từ Trung Quốc đang khiến cho ngành dệt may Việt Nam có thể sẽ không được hưởng lợi nhiều nhất từ TPP như mọi người vẫn nghĩ.
Dệt may hẳn là ngành được quan tâm nhiều nhất trong TPP, khi mà 12 nước thành viên đã đồng ý dành chương riêng cho ngành công nghiệp vốn được đánh giá là có vai trò rất quan trọng vào tăng trưởng kinh tế tại một số thị trường của các nước TPP.
Sản lượng xuất khẩu có thể tăng 21%?
Theo thông báo từ Bộ Công Thương, dệt may sẽ được xóa bỏ thuế quan ngay khi hiệp định được ký kết và có hiệu lực.
Tuy nhiên, thuế quan đối với một số mặt hàng nhạy cảm sẽ được xóa bỏ với lộ trình dài hơn, song những mặt hàng này chưa được tiết lộ cụ thể.
TPP cũng đặt ra ra yêu cầu cụ thể về quy tắc xuất xứ, tức là các DN phải sử dụng sợi và vải từ khu vực TPP, nhằm thúc đẩy việc thiết lập các chuỗi cung ứng và đầu tư vào lĩnh vực này.
Để hỗ trợ cho các nước trong TPP đáp ứng yêu cầu về quy tắc xuất xứ, các thành viên cũng đưa ra cơ chế về “nguồn cung thiếu hụt”, cho phép việc sử dụng một số loại sợi và vải nhất định không có sẵn trong khu vực.
Đặc biệt, chương Dệt may còn đưa ra những cam kết về hợp tác và thực thi hải quan nhằm ngăn chặn việc trốn thuế, buôn lậu và gian lận.
Đồng thời, các DN dệt may cũng có những cơ chế để tự vệ thương mại, tránh những nguy cơ bị thiệt hại trong trường hợp có sự gia tăng đột biến về nhập khẩu.
Một chương riêng về quy tắc xuất xứ cũng được đưa ra, trong đó thống nhất một bộ quy tắc xuất xứ chung để xác định hàng hóa “có xuất xứ” và được hưởng thuế quan ưu đãi trong TPP.
Đồng thời, quy định về “cộng gộp”, cho phép sử dụng nguyên liệu của một trong những thành viên của TPP.
Theo đó, các nhà xuất khẩu chỉ cần chứng minh được nguồn gốc xuất xứ hàng hóa thì sẽ được hưởng ưu đãi thuế quan.
Các nước tham gia TPP là đối tác xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, đặc biệt là Mỹ và Nhật Bản.
Có đến 40% giá trị hàng hóa của Việt Nam được xuất sang 11 nước trong TPP, trong đó những mặt hàng quần áo, dệt may và day giày chiếm đến 31% tổng giá trị.
Theo dự báo của World Bank, sản lượng dệt may có thể tăng 21% và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường Mỹ có thể đạt kỷ lục 90% vào năm 2020.
Đồng thời, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của ngành có thể ở mức 41%, tương ứng với giá trị xuất khẩu tăng thêm 11,5 tỷ USD đến năm 2020.
Trao đổi riêng với chúng tôi, bà Đặng Phương Dung - Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam, cho rằng ngành dệt may đang có nhiều lợi thế để đáp ứng yêu cầu về quy tắc xuất xứ.
Vì hiện nay ngành sợi của Việt Nam đã phát triển và có khả năng đáp ứng khi dệt có nhu cầu.
Tính bài toán đầu tư nguyên phụ liệu
“Hiện sản phẩm dệt của Việt Nam sản xuất ra, xuất khẩu tới 70% và chỉ sử dụng cho nội địa 30%.
Nên khi có TPP nhu cầu cao hơn, thì sợi sẽ làm bài toán chuyển dịch sản xuất cho phù hợp với nhu cầu thị trường, giờ họ đã sẵn nong sẵn né nên sẽ chuyển dịch nhanh” - bà Dung đánh giá.
Nhưng theo đánh giá của Công ty cổ phần chứng khoán Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BSC), để đáp ứng quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi”, bắt buộc các DN phải sử dụng nguyên liệu trong nước hoặc nhập khẩu từ các nước trong TPP để được hưởng thuế suất ưu đãi.
Hiện có tới hơn 70% nguyên phụ liệu sản xuất dệt may được nhập từ nước ngoài.
Trong đó, nhập nguyên phụ liệu từ Trung Quốc chiếm tới 42% theo số liệu của Vitas, còn lại ngành dệt may nhập nguyên liệu từ Hàn Quốc, ASEAN, Đài Loan…
Đây được xem là một thách thức cho ngành để có thể khai thác lợi thế và tận dụng ưu đãi thuế từ TPP.
Trong khi các dự án sản xuất nguyên liệu đầu vào như sợi, dệt, nhuộm vải cần nhiều vốn và liên quan đến vấn đề môi trường, trong khi các DN dệt may Việt Nam chủ yếu có quy mô nhỏ, vốn ít nên việc đầu tư các dự án cung ứng nguyên liệu không được quan tâm.
Do đó, chỉ một số ít các DN quy mô lớn, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước mà đứng đầu là Tập đoàn dệt may Việt Nam (Vinatex) có các dự án nhằm đón đầu hiệp định TPP.
Năm 2015, Vinatex đưa ra kế hoạch triển khai 51 dự án mới, chủ yếu về sợi, dệt, nhuộm nhằm cung cấp nguyên liệu.
Theo đánh giá của bà Dung, rất khó để có đủ nguồn lực cho đầu tư nguyên phụ liệu của ngành dệt may.
Bởi đây là những ngành đòi hỏi vốn lớn, trong khi những vấn đề về đất đai, môi trường, công nghệ, quản lý… đang là những nút thắt để ngành nâng cao sức cạnh tranh.
“Việt Nam mình khó hơn các nước về quản lý, vốn nhưng vấn đề là để có kinh nghiệm cạnh tranh với các nước như Trung Quốc, khi mà họ đã đi trước ta trong dệt nhuộm, các nhà máy của họ đã gần như khấu hao và giờ họ chỉ đổi mới, thì trong đầu tư nguyên phụ liệu, DN của ta phải tính, chứ không làm ào ào”, bà Dung khuyến nghị.
Trong bối cảnh DN nội không đủ nguồn lực để đầu tư nguyên phụ liệu, BSC nhận định, dòng vốn FDI đầu tư vào ngành dệt may tăng mạnh do hiệu ứng TPP.
Từ năm 2014 đã có nhiều dự án FDI được rót vào dệt may, chủ yếu đến từ các nhà đầu tư Trung Quốc, Đài Loan, Hong Kong.
Tính đến giữa năm 2015, ngành dệt đóng góp 4,18 tỷ USD trong thu hút FDI, chiếm 76,2% trong tổng vốn.
Với cơ cấu nhập khẩu nguyên liệu đầu vào đang có sự thay đổi lớn, sẽ giúp chuyển dịch nguồn cung sang các nước trong TPP, giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc và Đài Loan.
Tuy nhiên, những lợi thế của TPP đang được nhận định là mang lại lợi ích cho những nhà đầu tư về dệt, nhuộm, khi đẩy mạnh đầu tư vào Việt Nam với các dự án lớn để đón đầu cơ hội giảm thuế từ TPP.
Đồng thời, ngay cả khi không được hưởng ưu đãi thuế suất 0%, một số doanh nghiệp dệt may cũng sẽ được hưởng lợi gián tiếp từ việc gia tăng các đơn hàng của các doanh nghiệp nước ngoài để gia công.
Sau khi được tất cả quốc hội các nước thành viên EU phê chuẩn, Hiệp định đối tác hợp tác EU – Việt Nam chính thức có hiệu lực từ ngày 01/10/2016.
Cụ thể, theo thông báo của Hội đồng châu Âu số S 6816/08455 ngày 29/09/2016 gửi Phái đoàn thường trú của Việt Nam tại EU (Brussels, Vương quốc Bỉ), Hiệp định đối tác hợp tác EU – Việt Nam đã được tất cả quốc hội các nước thành viên EU phê chuẩn và đã hoàn tất toàn bộ thủ tục pháp lý nội bộ giữa các thể chế của EU.
Hiệp định đối tác hợp tác EU – Việt Nam được hai bên ký kết tại Brussels ngày 27/06/2012 có hiệu lực kể từ ngày 01/10/2016 đóng vai trò cơ sở cho các thỏa thuận hợp tác giữa EU - Việt Nam trong đó có Hiệp định thương mại tự do EVFTA đang trong quá trình rà soát pháp lý để chuẩn bị ký kết chính thức trước khi trình Quốc hội EU và Quốc hội Viêt Nam phê chuẩn.
Kể từ khi Việt Nam đổi mới, EU đã từng bước trở thành là một trong những đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Quan hệ EU – Việt Nam đã được nâng tầm ngày càng sâu rộng qua nhiều giai đoạn phát triển và mang lại nhiều lợi ích cho người dân.
Xuất khẩu của Việt Nam sang EU năm 2015 đạt gần 30 tỉ euro (nguồn: Eurostat). Tính đến 31/12/2015, các nước thành viên EU có hơn 1.700 dự án đầu tư trực tiếp tại Việt Nam còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký 21.48 tỉ USD (nguồn: Bộ KHĐT). Quan hệ thương mại và đầu tư Việt Nam – EU đã tạo ra hàng triệu việc làm cho người lao động đồng thời góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm made in Việt Nam cho thị trường châu Âu.
Dệt may Việt Nam mới chỉ mạnh khâu may, còn các khâu còn lại như sợi, dệt, nhuộm chưa đáp ứng được nhu cầu. Trong khi đó, công nghiệp hỗ trợ ô tô còn yếu còn xe máy đã phát triển mạnh với tỷ lệ nội địa hóa tới 97%.
Mạnh may, yếu sợi, dệt, nhuộm
Tổng Giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) Lê Tiến Trường được TTXVN dẫn lời cho biết, hiện dệt may Việt Nam mới chỉ mạnh ở khâu may, các khâu còn lại như sợi, dệt, nhuộm hoàn tất chưa đáp ứng được nhu cầu. Công nghiệp phụ trợ của Việt Nam hiện đang vướng “nút thắt cổ chai” khi 80% vải nguyên liệu phụ thuộc nhập khẩu.
Các sản phẩm hỗ trợ cho ngành dệt may mới chỉ tập trung chủ yếu công đoạn giá trị gia tăng thấp như cúc, chỉ dây, khóa keo, băng chun, băng dính…. Các khâu có giá trị gia tăng cao như sợi, hóa chất - chất trợ nhuộm, nhuộm in hoa và hoàn tất vải đều phải nhập khẩu. Tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm còn thấp.
Tính riêng năm 2015, dệt may Việt Nam xuất được 27,5 tỷ USD thì phải nhập tới 14 tỷ USD nguyên liệu.
Cũng theo ông Lê Tiến Trường, nếu đầu tư một vị trí làm của công nhân may, DN chỉ cần 3.000 USD (con người và công nghệ), còn nếu đầu tư vị trí công nhân sợi hoặc dệt thì phải mất 200.000 USD.
Như vậy, đối với DN vừa và nhỏ muốn đầu tư vào dệt, nhuộm là vô cùng khó khăn. Bên cạnh đó, vấn đề xử lý môi trường cũng rất tốn kém vì DN trong nước nếu không có tiềm lực rất khó có thể đầu tư khi chỉ đi vay.
Ngoài ra, khâu sợi, dệt, nhuộm hoàn tất cũng đòi hỏi nguồn vốn lớn cũng như chất lượng nhân sự cao và không thể tuyển lao động phổ thông như khâu may. Bên cạnh đó, công nghệ máy móc cũng cần hiện đại mới đáp ứng được sản phẩm sợi, vải, phụ liệu chất lượng cao.
Hiện nay, ngành dệt may Việt Nam cũng đang kêu gọi các DN tập trung đầu tư cho chuỗi cung ứng hoàn chỉnh, bằng giải pháp thành lập mới các DN ở khâu thắt nút là sợi, dệt, nhuộm hoàn tất.
Mạnh xe máy, yếu ô tô
Là DN vừa sản xuất xe máy, vừa sản xuất ô tô, Phó Tổng Giám đốc thứ nhất Công ty Honda Việt Nam Vũ Quang Tâm nhìn nhận, công nghiệp hỗ trợ cho ô tô còn yếu, nhưng cho xe máy được đánh giá đã phát triển mạnh với tỷ lệ nội địa hóa rất cao.
Trong công nghiệp hỗ trợ, xe máy có thuận lợi hơn do sản lượng tốt, nhiều mẫu xe, mỗi mẫu khoảng vài trăm nghìn xe/năm, kèm theo đó là công nghệ làm cho xe máy đơn giản hơn so với làm cho ô tô nên dễ triển khai trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ. Đến nay, Honda Việt Nam có khoảng 140 nhà cung cấp linh kiện phụ tùng và đạt tỷ lệ nội địa hóa bình quân ở các sản phẩm từ 96- 97%.
Tuy nhiên, ở lĩnh vực ô tô lại là bài toán khác. Vấn đề khó cho công nghiệp hỗ trợ ô tô là tổng dung lượng thị trường nhỏ, phân tán, nhiều mẫu, thị trường chưa đủ lớn để có thể thu hút các nhà đầu tư vào làm công nghiệp hỗ trợ.
Cụ thể như, hiện nay có nhiều DN làm gia công cho Công ty Honda Việt Nam, nhưng tôn dập vỏ xe; sắt, thép chất lượng cao để làm trục bánh răng và các chi tiết các DN đều phải nhập khẩu Đáng chú ý, hiện nay các DN đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp phụ trợ ô tô rất sẵn sàng, nhưng chưa tìm và giải quyết được bài toán đầu vào đầu ra cho sản phẩm.
Ngoài ra, ông Tâm cũng cho rằng còn có sự chưa thống nhất về quan điểm, chính sách giữa các cơ quan quản lý. Trong khi Bộ Công Thương xây dựng chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô và muốn tăng dung lượng thị trường thì Bộ Giao thông vận tải lại xây dựng chiến lược giảm lượng xe do sức ép cơ sở hạ tầng, Bộ Tài chính thì ban hành nhiều loại phí nhằm hạn chế việc mua sắm và lưu hành ô tô du lịch cá nhân.
Theo ông Vũ Quang Tâm, tiêu dùng ô tô là xu hướng tất yếu. Tuy nhiên, để giải quyết dung hòa bài toán trên, đòi hòi cần có sự phối kết hợp của nhiều bộ, ngành để cùng xác định tập trung phát triển một số lĩnh vực có thế mạnh, có chính sách ưu tiên, nhưng không dàn trải.
Cụ thể như tập trung phát triển dòng xe cỡ nhỏ dưới 1,5L tiết kiệm nhiên liệu, phân khúc B bởi đây là phân khúc đang tiêu thụ rất tốt trên thị trường thì nên tập trung chính sách ưu tiên để nâng sản lượng.
(TBKTSG Online) - Khác với hai năm trước là thời điểm nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) rót vào ngành dệt may tăng cao đột biến, từ đầu năm đến nay nguồn vốn này đang có xu hướng chậm lại.
Đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực dệt may trong những tháng đầu năm nay có vẻ im ắng hơn so với hai năm trước. Ảnh minh họa: Hùng Lê
Theo giới chuyên gia trong ngành, trong năm 2014 và 2015 nhiều doanh nghiệp dệt may nước ngoài tăng tốc đầu tư vào Việt Nam với quy mô vốn lớn là nhằm đón đầu Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) được thông qua để hưởng thuế suất nhập khẩu 0%, nhưng từ đầu năm đến nay thông tin về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực này ở Việt Nam có vẻ im ắng.
Tại buổi họp báo giới thiệu Triển lãm máy móc, thiết bị, nguyên phụ liệu ngành công nghiệp dệt và may - VTG 2016 mói đây (20-9), ông Nguyễn Hồng Giang, Phó chủ tịch Hiệp hội Bông sợi Việt Nam, cho rằng có thể là do tác động từ cuộc bầu cử Tổng thống của nước Mỹ nên các doanh nghiệp nước ngoài đang nghe ngóng tình hình và thận trọng hơn trong quyết định đầu tư.
Ông Giang tạm chia làn sóng đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dệt may vào Việt Nam thành ba nhóm, nhóm đầu thuộc những doanh nghiệp, tập đoàn lớn (chủ yếu là những doanh nghiệp Trung Quốc hoặc các nước khác đang hoạt động ở Trung Quốc), và những doanh nghiệp này đã nhanh chóng đầu tư phát triển dự án mới vào Việt Nam trong hai năm qua nhằm đón đầu cơ hội TPP.
Nhóm thứ hai là những doanh nghiệp cũng có quy mô vốn khá lớn nhưng chưa có nhiều kinh nghiệm đầu tư ra nước ngoài hoặc còn rất thận trọng khi đầu tư sang một nước khác. Ở điều kiện hiện nay của Việt Nam nếu không có thông tin gì mang tính cản trở thì có thể làn sóng thứ hai đầu tư vào dệt may của Việt Nam thuộc nhóm doanh nghiệp này. Tuy nhiên giờ đây họ đang chờ đợi về thông tin bầu cử ở Mỹ (do việc thông qua TPP tại Mỹ còn ít nhiều phụ thuộc vào kết quả bầu cử này) cũng như xem có doanh nghiệp Trung Quốc đi trước đầu tư thành công rồi họ mới đi theo.
Làn sóng thứ ba thuộc nhóm những doanh nghiệp quy mô vốn nhỏ hơn thì phải sau nhóm doanh nghiệp thứ hai nữa.
Đồng tình với quan điểm trên, ông Phạm Xuân Hồng, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may thêu đan TPHCM, cũng cho rằng từ đầu năm đến nay thông tin về đầu tư của doanh nghiệp dệt may của nước ngoài vào Việt Nam khá im ắng so với hai ba năm trước đây. Cũng theo ông Hồng, các dự án đầu tư của doanh nghiệp FDI ở Việt Nam có thể cũng chậm hoặc kéo dài thời gian triển khai hơn so với kế hoạch do họ chờ đợi tin tức về bầu cử ở Mỹ.
Mặc dù vậy, ông Nguyễn Hồng Giang khẳng định, môi trường đầu tư Việt Nam hiện vẫn còn khá hấp dẫn với các nhà đầu tư dệt may nước ngoài. Chưa biết kết quả TPP sẽ như thế nào nhưng Việt Nam còn có những lực kéo hỗ trợ khác cho nhà đầu tư thông qua các Hiệp định thương mại tư do (FTA) với các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, châu Âu,... Đáng chú ý là chi phí sản xuất của Việt Nam khá cạnh tranh so với các nước khác.
Dẫn nguồn từ khảo sát gần đây của Hiệp hội Dệt may thời trang Mỹ, ông Giang cho biết có tới 68,8% các thương hiệu nhà bán lẻ, thương hiệu ngoại yêu cầu chọn Việt Nam là điểm dịch chuyển tiếp theo thay vì Trung Quốc. Do đó, thời gian tới sẽ tiếp tục có làn sóng các doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt Nam.
Liên quan đến xuất khẩu dệt may Việt Nam, ông Giang cho biết, trong 8 tháng đầu năm kim ngạch toàn ngành mới đạt 18,7 tỉ đô la Mỹ, tăng khoảng 4,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Dù xuất khẩu vẫn tăng trưởng dương nhưng so với mức tăng trưởng của các năm trước cũng như mục tiêu đề ra thì tốc độ này đang chậm lại và thấp hơn mục tiêu do tình trạng thiếu đơn hàng và nhu cầu của thị trường thế giới sụt giảm. Điều này dẫn đến sản xuất trong nước đình trệ, nhiều doanh nghiệp nhỏ phải thu hẹp sản xuất, không đầu tư mới...
Theo các chuyên gia trong ngành, nếu tình trạng này kéo dài, xuất khẩu toàn ngành khó đạt được 29 tỉ đô la Mỹ chứ chưa nói tới mục tiêu 31 tỉ đô la Mỹ đưa ra hồi đầu năm. Nguyên nhân là do ngành này đang phải cạnh tranh trực tiếp với các đối thủ như Trung Quốc, Ấn Độ, Campuchia, Bangladesh, Myanmar, Sri Lanka. Ấn Độ là những nước đang tập trung nguồn lực cũng như chính sách từ phía nhà nước để phát triển ngành dệt may. Ngoài ra, Campuchia, Myanmar... được hưởng ưu đãi thuế quan khi xuất khẩu sang EU.
Bên cạnh yếu tố bên ngoài, chính sách trong nước không “nuôi dưỡng” mà lại gây áp lực tới doanh nghiệp như việc tăng lương tối thiểu và một số quy định kiểm tra chuyên ngành không hợp lý.
Về tình hình đơn hàng của các doanh nghiệp dệt may, theo tìm hiểu của ông Phạm Xuân Hồng, các doanh nghiệp phản ánh hai tuần trở lại đây không có đơn hàng để làm chứ đừng nói đến chuyện tăng ca. Như vậy có thể thấy, hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp đang rất khó khăn.
Theo ông Hồng, ngành may Việt Nam không chỉ gặp khó khăn ở các thị trường xuất khẩu mà còn đang phải cạnh tranh gay gắt với các nước sản xuất may mặc trong khu vực, nhất là Campuchia. Để cạnh tranh, các doanh nghiệp cần phải đầu tư máy móc thiết bị hiện đại, chọn nguồn nguyên liệu tốt, giảm chi phí sản xuất và tập trung làm hàng FOB thay vì chỉ gia công đơn thuần như trước đây.
Chưa được hưởng chính sách ưu đãi từ các hiệp định như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định tự do thương mại (FTA), các doanh nghiệp dệt may Việt Nam lại bất lực nhìn các đơn hàng chạy sang các nước khác.
Hoàn thành mục tiêu kinh doanh 6 tháng đầu năm nhưng doanh thu xuất khẩu của Tổng Công ty Cổ phần Phong Phú lại giảm so với cùng năm ngoái. Năm nay ngành dệt may chỉ tăng 6% về sản lượng và doanh thu chỉ tăng 2,5-3%. Theo ông Phạm Xuân Trình, Tổng Giám đốc Công ty, điều này chứng tỏ thị trường đang cạnh tranh quyết liệt về giá.
Khi thị trường châu Âu khó khăn, nhiều đề nghị giảm giá hoặc hủy đơn hàng, nên doanh nghiệp Việt Nam phải chấp nhận lựa chọn. Năm nay được cho là năm khó khăn nhất đối với ngành dệt may kể từ 10 năm trở lại đây. Ngoài thị trường EU, theo ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas), thị trường Nhật, Hàn Quốc 6 tháng đầu năm cũng không bằng cùng kỳ năm trước.
Ông Giang cho biết từ đầu năm đến nay, các doanh nghiệp vẫn có thể cầm cự nhưng bắt đầu từ tháng 8, tình trạng thiếu đơn hàng đang tạo ra áp lực lớn cho doanh nghiệp. Không chỉ có doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam phải đóng cửa và bán lại nhà xưởng, đầu năm nay một doanh nghiệp của Nhật đầu tư tại Long An cũng đã phải đóng cửa vì không đủ đơn hàng.
Hiện nay, một số nước đang trở thành điểm đến của các đơn hàng dệt may như Ấn Độ, Campuchia, Pakistan, Myanmar… Năm 2015, xuất khẩu hàng dệt may của Campuchia vào thị trường Liên minh châu Âu (EU) đã vượt qua Việt Nam, trở thành nước có thị phần xuất khẩu hàng dệt may lớn thứ 5 tại EU, còn Việt Nam chỉ đứng thứ 6. Trong khi trước đó, năm 2010, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào EU cao gấp đôi Campuchia.
Thậm chí, nhiều nhà máy sản xuất dệt may cũng đang dịch chuyển sang các nước có chi phí nhân công thấp như Campuchia, Myanmar… Trong khi đó, giá nhân công của những nước này thấp hơn 100 USD/người/tháng; nếu tính bài toán chi phí, cứ 1.000 công nhân thì một năm đã tiết kiệm 120 triệu USD.
Trước những khó khăn, tháng 7 vừa qua, Vitas đã giảm mức dự báo kim ngạch xuất khẩu từ 31 tỉ USD xuống còn 29 tỉ USD. Theo ông Lê Quang Hùng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Cổ phần May Garmex Sài Gòn, chi phí dệt may của Campuchia, Myanmar 100 USD/người/tháng nhưng ở Việt Nam mức giá đã lên đến 300 USD/người/tháng. Vì vậy, dù tay nghề lao động cao hơn nhưng dệt may Việt Nam rất khó cạnh tranh với các nước. Giá đơn hàng của Việt Nam hiện cao hơn 10-30% so với các nước đối thủ.
Nhiều doanh nghiệp dệt may đang rơi vào tình trạng thiếu đơn hàng xuất khẩu. Ảnh: Thanh Hương
Khi các hiệp định thương mại được ký, chắc chắn các doanh nghiệp dệt may Việt sẽ được giảm thuế suất. Nhưng đến thời điểm này, Việt Nam mới chỉ ký FTA với Hàn Quốc. Hiệp định FTA giữa Việt Nam với châu Âu cũng phải chờ 1 năm nữa. TPP dù được kỳ vọng nhưng cũng cần thời gian chờ đợi. Theo cam kết của Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU, EU sẽ bỏ thuế nhập khẩu cho nhóm hàng dệt may Việt Nam, nhưng không bỏ ngay mà tiến hành 7 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực. Hiện thuế suất nhập khẩu bình quân áp dụng với hàng dệt may từ Việt Nam vào EU là 9,6%.
Trong lúc các doanh nghiệp Việt vẫn còn chờ đợi chính sách thì những nước sản xuất dệt may nhưng không tham gia TPP như Trung Quốc, Ấn Độ, Myanmar đã nhanh chóng đưa ra những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong nước như phá giá đồng tiền và hỗ trợ doanh nghiệp về thuế…
Hầu hết những nước đang thu hút đơn hàng dệt may đều nhận được nhiều ưu đãi. Campuchia cũng được ưu đãi thuế nhập khẩu hàng dệt may vào Mỹ 0%, trong khi Việt Nam phải chịu thuế khoảng 17%. Campuchia còn được nhiều nước cho hưởng chính sách ưu đãi thuế quan (MFN), nhất là tại thị trường châu Âu. Ngoài ra, doanh nghiệp Campuchia chủ yếu làm những đơn hàng không cao cấp đòi hỏi sản lượng lớn. Đó cũng là lý do vì sao Campuchia nhanh chóng vượt kim ngạch xuất khẩu Việt Nam tại EU.
Ông Phạm Xuân Trình phân tích, Việt Nam theo xu hướng ổn định tỉ giá nên xuất khẩu gặp khó khăn, trong khi chi phí từ vận chuyển, thủ tục, bảo hiểm đều cao khiến khả năng cạnh tranh rất khó so với các nước.
Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh đều có nhiều giải pháp tích cực để giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp nhằm khắc phục những bất lợi mà họ phải chịu do không là thành viên TPP. Trung Quốc đã thực hiện các khoản trợ cấp thông qua hình thức tài trợ hoặc cung cấp dịch vụ miễn phí, giảm giá từ chính quyền trung ương và địa phương... Ấn Độ giảm thuế nhập khẩu một số loại xơ, sợi nguyên liệu, miễn thuế nhập khẩu một số loại vải phục vụ hàng may mặc xuất khẩu. Pakistan thậm chí còn áp dụng mức thuế 0% (không cần nộp thuế, hoàn thuế tiêu thụ/GTGT) đối với nguyên phụ liệu dệt may trong 2 năm tới...
Theo ông Quang Hùng, Garmex Sài Gòn, doanh nghiệp Việt không thể trông chờ TPP và nên thay đổi chiến lược. Chẳng hạn, Garmex Sài Gòn, thay vì thâm dụng lao động và tận dụng lợi thế giá rẻ đã chuyển sang chiến lược đầu tư, nâng cao năng suất. Công ty đã mua những máy cắt chuyên dùng của Ý với giá 100.000 USD, giúp giảm 10% lao động và tăng năng suất lao động. Công ty cũng chuyển từ may gia công sang FOB (tự chủ nguyên phụ liệu). Ông Hùng ví dụ, may gia công có lợi nhuận 1-2% nhưng khi chuyển sang FOB, lợi nhuận sẽ cao hơn 4 lần. Với doanh thu 1.550 tỉ đồng, lợi nhuận của Garmex Sài Gòn dự kiến sẽ đạt 60 tỉ đồng...
Trong lúc các đơn hàng ồ ạt chạy sang các nước láng giềng, Việt Nam hầu như không có chính sách nào để giữ đơn hàng, doanh nghiệp Việt Nam không đủ khả năng đầu tư và cứ bấu víu vào ưu đãi trong Hiệp định thì phải đợi đến năm 2018.
Một đoàn doanh nghiệp thuộc Phòng Công nghiệp Dệt may Quốc gia Mexico (Canaintex) sẽ tiến hành chuyến thăm khảo sát và phân tích lĩnh vực dệt may của Việt Nam từ ngày 22-27/8 tới.
Theo phóng viên TTXVN tại Mexico, đoàn doanh nghiệp Mexico dự kiến sẽ thăm 7 nhà máy và một khu công nghiệp dệt may nhằm phân tích và nghiên cứu quy trình từ sản xuất sợi đến các sản phẩm may mặc của Việt Nam.
Canaintex nhận định, một khi thỏa thuận Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) được thông qua, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sẽ tăng mạnh và mở rộng thị phần trên thị trường của khối TPP, đặc biệt tại thị trường Mỹ nhờ các điều khoản về ưu đãi thuế quan song phương.
Việt Nam hiện là nhà cung cấp hàng dệt may quan trọng thứ 2 đối với thị trường Mỹ, trong khí đó Mexico xếp thứ 6. Theo số liệu thống kê, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ đạt 11 tỷ USD trong năm 2015 và chỉ trong 6 tháng đầu năm 2016 đã lên đến 4,29 tỷ USD, tăng 5,93% so với cùng kỳ năm ngoái.