Phan Tấn Lượng
STK công bố báo cáo quản trị Công ty bán niên 2018.
STK công bố báo cáo quản trị Công ty bán niên 2018.
Báo cáo tài chính mẹ Quý 2.2018
Báo cáo tài chính mẹ Quý 2.2018
Báo cáo tài chính hợp nhất Quý 2.2018
Báo cáo tài chính hợp nhất Quý 2.2018
STK công bố Báo cáo tài chính mẹ Quý 2-2018.
STK công bố Báo cáo tài chính mẹ Quý 2-2018.
STK công bố Báo cáo tài chính hợp nhất Quý 2-2018.
STK công bố Báo cáo tài chính hợp nhất Quý 2-2018.
Hiệp hội dệt may: Cuộc chiến thương mại Mỹ Trung có lợi cho dệt may Việt Nam
NDH) Các doanh nghiệp ngành dệt may Việt Nam cần chủ động nắm bắt những lợi thế mà các hiệp định thương mại mang lại nhằm tăng cường xuất khẩu sản phẩm.
Ngày 18/7, Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS) đã tổ chức hội thảo về Những tác động của Hiệp định CPTPP – EVFTA đối với ngành dệt may Việt Nam.
Thông tin từ hiệp hội, trong 6 tháng đầu 2018, xuất khẩu dệt may ước đạt 16,5 tỷ USD, tăng 16,5% so với cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu mặt hàng may mặc ước đạt 12,86 tỷ USD, tăng 15,3%; mặt hàng vải đạt 787 triệu USD, tăng 31,8%; các mặt hàng có giá trị gia tăng cao như xơ sợi, tăng 19%, vải địa kỹ thuật tăng 16%, phụ liệu dệt may tăng 19%.
Tổng kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may 6 tháng ước đạt 10,7 tỷ USD, tăng 15,9%. Giá trị thặng dư thương mại đạt 7,6 tỷ USD, tăng 13,8%.
Những thị trường xuất khẩu trọng điểm như Hoa Kỳ, các nước khối Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Liên minh châu Âu (EU), Hàn Quốc, Trung Quốc, ASEAN… đều tăng trưởng, tốc độ tăng cao so với cùng kỳ năm 2017.
Theo ông Vũ Đức Giang – Chủ tịch VITAS, tăng trưởng xuất khẩu của ngành dệt may đang ở mức cao nhất trong 5 năm gần đây. Điều này có được nhờ các doanh nghiệp đã thích ứng với sự chuyển dịch thị trường và các quốc gia xuất khẩu cũng đa dạng hơn.
Bên cạnh đó, các hiệp định thương mại tự do (FTA) cũng là yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu. Các FTA đã thu hút nhiều doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam. Ông Giang cho biết, hiện nay Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất trong ngành dệt may tại Việt Nam, theo sau là Đài Loan, Hong kong.
Mặt khác, việc xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường sau khi có các hiệp định thương mại cũng không khó khăn như trước. Điển hình như thị trường Canada và Úc, số lượng lớn đơn hàng đã tăng nhanh. Báo cáo hiệp hội dệt may cũng cho biết, tình hình đơn hàng của doanh nghiệp tương đối khả quan. Nhiều công ty đã nhận đơn hàng đến hết năm.
Hội thảo hiệp định CPTPP – EVFTA
Nửa cuối năm, theo Hiệp hội Dệt may, những diễn biến mới từ cuộc chiến thương mại Mỹ Trung theo hướng có lợi cho hàng hóa Việt Nam, xuất khẩu hàng dệt may có thể đạt 18,5 tỷ USD, nâng kim ngạch xuất khẩu cả năm lên 35 tỷ USD, vượt 1 tỷ USD so với kế hoạch.
Trong bối cảnh hiện nay, các hiệp định thương mại tự do (FTA) sẽ mang đến nhiều cơ hội cho ngành dệt may nói riêng và doanh nghiệp Việt Nam. Công ty trong ngành có cơ hội tiếp cận tới nhiều thị trường, tăng trưởng xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công thương, ông Trần Thanh Hải chia sẻ tại hội thảo, hiện nay có 10 hiệp định thương mại mà Việt Nam tham gia đang được thực thi. 3 hiệp định rất lớn nếu được phê duyệt sẽ tác động lớn đến ngành dệt may là CPTPP, FTA Việt Nam – EU (EVFTA) và Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Tuy nhiên ông Hải cũng cho biết, doanh nghiệp Việt Nam cần phải tuân thủ các quy tắc xuất khẩu, tiêu chuẩn kỹ thuật thì mới tận dụng được lợi thế từ các hiệp định FTA.
Đồng quan điểm, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may cũng nhấn mạnh, doanh nghiệp hiện đang đối mặt với thách thức về hàng rào kỹ thuật và quy trình xuất xứ sản phẩm. Bên cạnh đó, phí losgictic cũng là điểm hạn chế tại Việt Nam. Hiện nay chi phí vận chuyển tại Việt Nam cao hơn so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia, Singapore… Vì vậy, dù có lợi thế nhân công giá rẻ, Việt Nam vẫn bị điểm ‘trừ’ về sức cạnh tranh trong ngành.
Ông Giang cho rằng, các doanh nghiệp cần xây dựng chuỗi cung ứng sản xuất, giảm bớt phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu từ nước ngoài, đảm bảo quy tắc xuất xứ của các hiệp định thương mại .
Doanh nghiệp cũng cần đẩy mạnh đào tạo nhân lực, áp dụng công nghệ cao cải thiện năng suất, chất lượng sản phẩm. Đối với với hoạt động logistics, doanh nghiệp vận tải trong nước cần xây dựng theo chuỗi, giúp giảm chi phí cho các doanh nghiệp dệt may.
http://ndh.vn/hiep-hoi-det-may-cuoc-chien-thuong-mai-my-trung-co-loi-cho-det-may-viet-nam-2018071902233519p145c151.news
NDH) Các doanh nghiệp ngành dệt may Việt Nam cần chủ động nắm bắt những lợi thế mà các hiệp định thương mại mang lại nhằm tăng cường xuất khẩu sản phẩm.
Ngày 18/7, Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS) đã tổ chức hội thảo về Những tác động của Hiệp định CPTPP – EVFTA đối với ngành dệt may Việt Nam.
Thông tin từ hiệp hội, trong 6 tháng đầu 2018, xuất khẩu dệt may ước đạt 16,5 tỷ USD, tăng 16,5% so với cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu mặt hàng may mặc ước đạt 12,86 tỷ USD, tăng 15,3%; mặt hàng vải đạt 787 triệu USD, tăng 31,8%; các mặt hàng có giá trị gia tăng cao như xơ sợi, tăng 19%, vải địa kỹ thuật tăng 16%, phụ liệu dệt may tăng 19%.
Tổng kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may 6 tháng ước đạt 10,7 tỷ USD, tăng 15,9%. Giá trị thặng dư thương mại đạt 7,6 tỷ USD, tăng 13,8%.
Những thị trường xuất khẩu trọng điểm như Hoa Kỳ, các nước khối Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Liên minh châu Âu (EU), Hàn Quốc, Trung Quốc, ASEAN… đều tăng trưởng, tốc độ tăng cao so với cùng kỳ năm 2017.
Theo ông Vũ Đức Giang – Chủ tịch VITAS, tăng trưởng xuất khẩu của ngành dệt may đang ở mức cao nhất trong 5 năm gần đây. Điều này có được nhờ các doanh nghiệp đã thích ứng với sự chuyển dịch thị trường và các quốc gia xuất khẩu cũng đa dạng hơn.
Bên cạnh đó, các hiệp định thương mại tự do (FTA) cũng là yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu. Các FTA đã thu hút nhiều doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam. Ông Giang cho biết, hiện nay Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất trong ngành dệt may tại Việt Nam, theo sau là Đài Loan, Hong kong.
Mặt khác, việc xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường sau khi có các hiệp định thương mại cũng không khó khăn như trước. Điển hình như thị trường Canada và Úc, số lượng lớn đơn hàng đã tăng nhanh. Báo cáo hiệp hội dệt may cũng cho biết, tình hình đơn hàng của doanh nghiệp tương đối khả quan. Nhiều công ty đã nhận đơn hàng đến hết năm.
Hội thảo hiệp định CPTPP – EVFTA
Nửa cuối năm, theo Hiệp hội Dệt may, những diễn biến mới từ cuộc chiến thương mại Mỹ Trung theo hướng có lợi cho hàng hóa Việt Nam, xuất khẩu hàng dệt may có thể đạt 18,5 tỷ USD, nâng kim ngạch xuất khẩu cả năm lên 35 tỷ USD, vượt 1 tỷ USD so với kế hoạch.
Trong bối cảnh hiện nay, các hiệp định thương mại tự do (FTA) sẽ mang đến nhiều cơ hội cho ngành dệt may nói riêng và doanh nghiệp Việt Nam. Công ty trong ngành có cơ hội tiếp cận tới nhiều thị trường, tăng trưởng xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công thương, ông Trần Thanh Hải chia sẻ tại hội thảo, hiện nay có 10 hiệp định thương mại mà Việt Nam tham gia đang được thực thi. 3 hiệp định rất lớn nếu được phê duyệt sẽ tác động lớn đến ngành dệt may là CPTPP, FTA Việt Nam – EU (EVFTA) và Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Tuy nhiên ông Hải cũng cho biết, doanh nghiệp Việt Nam cần phải tuân thủ các quy tắc xuất khẩu, tiêu chuẩn kỹ thuật thì mới tận dụng được lợi thế từ các hiệp định FTA.
Đồng quan điểm, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may cũng nhấn mạnh, doanh nghiệp hiện đang đối mặt với thách thức về hàng rào kỹ thuật và quy trình xuất xứ sản phẩm. Bên cạnh đó, phí losgictic cũng là điểm hạn chế tại Việt Nam. Hiện nay chi phí vận chuyển tại Việt Nam cao hơn so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia, Singapore… Vì vậy, dù có lợi thế nhân công giá rẻ, Việt Nam vẫn bị điểm ‘trừ’ về sức cạnh tranh trong ngành.
Ông Giang cho rằng, các doanh nghiệp cần xây dựng chuỗi cung ứng sản xuất, giảm bớt phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu từ nước ngoài, đảm bảo quy tắc xuất xứ của các hiệp định thương mại .
Doanh nghiệp cũng cần đẩy mạnh đào tạo nhân lực, áp dụng công nghệ cao cải thiện năng suất, chất lượng sản phẩm. Đối với với hoạt động logistics, doanh nghiệp vận tải trong nước cần xây dựng theo chuỗi, giúp giảm chi phí cho các doanh nghiệp dệt may.
http://ndh.vn/hiep-hoi-det-may-cuoc-chien-thuong-mai-my-trung-co-loi-cho-det-may-viet-nam-2018071902233519p145c151.news
NDH) Các doanh nghiệp ngành dệt may Việt Nam cần chủ động nắm bắt những lợi thế mà các hiệp định thương mại mang lại nhằm tăng cường xuất khẩu sản phẩm.
Ngày 18/7, Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS) đã tổ chức hội thảo về Những tác động của Hiệp định CPTPP – EVFTA đối với ngành dệt may Việt Nam.
Thông tin từ hiệp hội, trong 6 tháng đầu 2018, xuất khẩu dệt may ước đạt 16,5 tỷ USD, tăng 16,5% so với cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu mặt hàng may mặc ước đạt 12,86 tỷ USD, tăng 15,3%; mặt hàng vải đạt 787 triệu USD, tăng 31,8%; các mặt hàng có giá trị gia tăng cao như xơ sợi, tăng 19%, vải địa kỹ thuật tăng 16%, phụ liệu dệt may tăng 19%.
Tổng kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may 6 tháng ước đạt 10,7 tỷ USD, tăng 15,9%. Giá trị thặng dư thương mại đạt 7,6 tỷ USD, tăng 13,8%.
Những thị trường xuất khẩu trọng điểm như Hoa Kỳ, các nước khối Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Liên minh châu Âu (EU), Hàn Quốc, Trung Quốc, ASEAN… đều tăng trưởng, tốc độ tăng cao so với cùng kỳ năm 2017.
Theo ông Vũ Đức Giang – Chủ tịch VITAS, tăng trưởng xuất khẩu của ngành dệt may đang ở mức cao nhất trong 5 năm gần đây. Điều này có được nhờ các doanh nghiệp đã thích ứng với sự chuyển dịch thị trường và các quốc gia xuất khẩu cũng đa dạng hơn.
Bên cạnh đó, các hiệp định thương mại tự do (FTA) cũng là yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu. Các FTA đã thu hút nhiều doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam. Ông Giang cho biết, hiện nay Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất trong ngành dệt may tại Việt Nam, theo sau là Đài Loan, Hong kong.
Mặt khác, việc xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường sau khi có các hiệp định thương mại cũng không khó khăn như trước. Điển hình như thị trường Canada và Úc, số lượng lớn đơn hàng đã tăng nhanh. Báo cáo hiệp hội dệt may cũng cho biết, tình hình đơn hàng của doanh nghiệp tương đối khả quan. Nhiều công ty đã nhận đơn hàng đến hết năm.
Hội thảo hiệp định CPTPP – EVFTA
Nửa cuối năm, theo Hiệp hội Dệt may, những diễn biến mới từ cuộc chiến thương mại Mỹ Trung theo hướng có lợi cho hàng hóa Việt Nam, xuất khẩu hàng dệt may có thể đạt 18,5 tỷ USD, nâng kim ngạch xuất khẩu cả năm lên 35 tỷ USD, vượt 1 tỷ USD so với kế hoạch.
Trong bối cảnh hiện nay, các hiệp định thương mại tự do (FTA) sẽ mang đến nhiều cơ hội cho ngành dệt may nói riêng và doanh nghiệp Việt Nam. Công ty trong ngành có cơ hội tiếp cận tới nhiều thị trường, tăng trưởng xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công thương, ông Trần Thanh Hải chia sẻ tại hội thảo, hiện nay có 10 hiệp định thương mại mà Việt Nam tham gia đang được thực thi. 3 hiệp định rất lớn nếu được phê duyệt sẽ tác động lớn đến ngành dệt may là CPTPP, FTA Việt Nam – EU (EVFTA) và Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Tuy nhiên ông Hải cũng cho biết, doanh nghiệp Việt Nam cần phải tuân thủ các quy tắc xuất khẩu, tiêu chuẩn kỹ thuật thì mới tận dụng được lợi thế từ các hiệp định FTA.
Đồng quan điểm, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may cũng nhấn mạnh, doanh nghiệp hiện đang đối mặt với thách thức về hàng rào kỹ thuật và quy trình xuất xứ sản phẩm. Bên cạnh đó, phí losgictic cũng là điểm hạn chế tại Việt Nam. Hiện nay chi phí vận chuyển tại Việt Nam cao hơn so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia, Singapore… Vì vậy, dù có lợi thế nhân công giá rẻ, Việt Nam vẫn bị điểm ‘trừ’ về sức cạnh tranh trong ngành.
Ông Giang cho rằng, các doanh nghiệp cần xây dựng chuỗi cung ứng sản xuất, giảm bớt phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu từ nước ngoài, đảm bảo quy tắc xuất xứ của các hiệp định thương mại .
Doanh nghiệp cũng cần đẩy mạnh đào tạo nhân lực, áp dụng công nghệ cao cải thiện năng suất, chất lượng sản phẩm. Đối với với hoạt động logistics, doanh nghiệp vận tải trong nước cần xây dựng theo chuỗi, giúp giảm chi phí cho các doanh nghiệp dệt may.
http://ndh.vn/hiep-hoi-det-may-cuoc-chien-thuong-mai-my-trung-co-loi-cho-det-may-viet-nam-2018071902233519p145c151.news
NDH) Các doanh nghiệp ngành dệt may Việt Nam cần chủ động nắm bắt những lợi thế mà các hiệp định thương mại mang lại nhằm tăng cường xuất khẩu sản phẩm.
Ngày 18/7, Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS) đã tổ chức hội thảo về Những tác động của Hiệp định CPTPP – EVFTA đối với ngành dệt may Việt Nam.
Thông tin từ hiệp hội, trong 6 tháng đầu 2018, xuất khẩu dệt may ước đạt 16,5 tỷ USD, tăng 16,5% so với cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu mặt hàng may mặc ước đạt 12,86 tỷ USD, tăng 15,3%; mặt hàng vải đạt 787 triệu USD, tăng 31,8%; các mặt hàng có giá trị gia tăng cao như xơ sợi, tăng 19%, vải địa kỹ thuật tăng 16%, phụ liệu dệt may tăng 19%.
Tổng kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may 6 tháng ước đạt 10,7 tỷ USD, tăng 15,9%. Giá trị thặng dư thương mại đạt 7,6 tỷ USD, tăng 13,8%.
Những thị trường xuất khẩu trọng điểm như Hoa Kỳ, các nước khối Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Liên minh châu Âu (EU), Hàn Quốc, Trung Quốc, ASEAN… đều tăng trưởng, tốc độ tăng cao so với cùng kỳ năm 2017.
Theo ông Vũ Đức Giang – Chủ tịch VITAS, tăng trưởng xuất khẩu của ngành dệt may đang ở mức cao nhất trong 5 năm gần đây. Điều này có được nhờ các doanh nghiệp đã thích ứng với sự chuyển dịch thị trường và các quốc gia xuất khẩu cũng đa dạng hơn.
Bên cạnh đó, các hiệp định thương mại tự do (FTA) cũng là yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu. Các FTA đã thu hút nhiều doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam. Ông Giang cho biết, hiện nay Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất trong ngành dệt may tại Việt Nam, theo sau là Đài Loan, Hong kong.
Mặt khác, việc xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường sau khi có các hiệp định thương mại cũng không khó khăn như trước. Điển hình như thị trường Canada và Úc, số lượng lớn đơn hàng đã tăng nhanh. Báo cáo hiệp hội dệt may cũng cho biết, tình hình đơn hàng của doanh nghiệp tương đối khả quan. Nhiều công ty đã nhận đơn hàng đến hết năm.
Hội thảo hiệp định CPTPP – EVFTA
Nửa cuối năm, theo Hiệp hội Dệt may, những diễn biến mới từ cuộc chiến thương mại Mỹ Trung theo hướng có lợi cho hàng hóa Việt Nam, xuất khẩu hàng dệt may có thể đạt 18,5 tỷ USD, nâng kim ngạch xuất khẩu cả năm lên 35 tỷ USD, vượt 1 tỷ USD so với kế hoạch.
Trong bối cảnh hiện nay, các hiệp định thương mại tự do (FTA) sẽ mang đến nhiều cơ hội cho ngành dệt may nói riêng và doanh nghiệp Việt Nam. Công ty trong ngành có cơ hội tiếp cận tới nhiều thị trường, tăng trưởng xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công thương, ông Trần Thanh Hải chia sẻ tại hội thảo, hiện nay có 10 hiệp định thương mại mà Việt Nam tham gia đang được thực thi. 3 hiệp định rất lớn nếu được phê duyệt sẽ tác động lớn đến ngành dệt may là CPTPP, FTA Việt Nam – EU (EVFTA) và Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Tuy nhiên ông Hải cũng cho biết, doanh nghiệp Việt Nam cần phải tuân thủ các quy tắc xuất khẩu, tiêu chuẩn kỹ thuật thì mới tận dụng được lợi thế từ các hiệp định FTA.
Đồng quan điểm, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may cũng nhấn mạnh, doanh nghiệp hiện đang đối mặt với thách thức về hàng rào kỹ thuật và quy trình xuất xứ sản phẩm. Bên cạnh đó, phí losgictic cũng là điểm hạn chế tại Việt Nam. Hiện nay chi phí vận chuyển tại Việt Nam cao hơn so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia, Singapore… Vì vậy, dù có lợi thế nhân công giá rẻ, Việt Nam vẫn bị điểm ‘trừ’ về sức cạnh tranh trong ngành.
Ông Giang cho rằng, các doanh nghiệp cần xây dựng chuỗi cung ứng sản xuất, giảm bớt phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu từ nước ngoài, đảm bảo quy tắc xuất xứ của các hiệp định thương mại .
Doanh nghiệp cũng cần đẩy mạnh đào tạo nhân lực, áp dụng công nghệ cao cải thiện năng suất, chất lượng sản phẩm. Đối với với hoạt động logistics, doanh nghiệp vận tải trong nước cần xây dựng theo chuỗi, giúp giảm chi phí cho các doanh nghiệp dệt may.
http://ndh.vn/hiep-hoi-det-may-cuoc-chien-thuong-mai-my-trung-co-loi-cho-det-may-viet-nam-2018071902233519p145c151.news
Dệt may Việt trong “tâm bão” thương mại Mỹ – Trung: Cơ hội và thách thức song hành
Dệt may Việt trong “tâm bão” thương mại Mỹ – Trung: Cơ hội và thách thức song hành
(ĐTCK) Cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung đang diễn biến phức tạp, gây tác động tiêu cực tới nhiều nền kinh tế, nhiều ngành nghề kinh doanh, trong đó có ngành dệt may Việt Nam. Đánh giá sự tác động của sự kiện này, nhiều doanh nghiệp dệt may niêm yết cho rằng, cơ hội và thách thức cùng song hành.Ông Đặng Triệu Hòa, Chủ tịch HĐQT CTCP Sợi Thế Kỷ (STK) đánh giá, cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung đang gây tác động tiêu cực cho kinh tế thế giới. Một khi cuộc chiến này kéo dài sẽ kéo theo những thay đổi về chính sách tỷ giá, lãi suất… của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Đặc biệt, chuỗi cung ứng, cung cầu hàng hóa sẽ phải tái cơ cấu lại, điều này sẽ tác động lớn đến các doanh nghiệp Việt Nam.
“Chúng tôi giữ quan điểm thận trọng và theo dõi sát sao sự kiện này trong những tháng tiếp theo. Tôi cho rằng, việc chiến tranh thương mại Mỹ – Trung leo thang có khả năng làm sụt giảm nhu cầu tiêu thụ toàn cầu, từ đó ảnh hưởng tới tất cả các thành viên trên thị trường”, ông Hòa nói.
Trên thực tế, xu hướng các nhà nhập khẩu Mỹ chuyển đơn hàng từ Trung Quốc sang Việt Nam đã diễn ra trong những năm gần đây và chiến tranh thương mại Mỹ – Trung có thể đẩy tốc độ dịch chuyển đơn hàng sang Việt Nam nhanh hơn.
Theo số liệu của OTEXA, trong giai đoạn 2013-2018, thị phần của Việt Nam trong tổng nhập khẩu hàng may mặc của Mỹ tăng cả về khối lượng lẫn giá trị, trong khi thị phần của Trung Quốc liên tục sụt giảm.Ông Trần Như Tùng, Thành viên HĐQT CTCP Dệt may đầu tư thương mại Thành Công (TCM) cho rằng, trước mắt, chiến tranh thương mại Mỹ – Trung chưa ảnh hưởng nhiều tới ngành dệt may Việt Nam nói chung và TCM nói riêng. Nếu có, sẽ theo hướng tích cực, giúp gia tăng sức cạnh tranh cho ngành dệt may Việt Nam.
Ông Lê Quang Hùng, Chủ tịch HĐQT CTCP Sản xuất thương mại May Sài Gòn (GMC) cho biết, hiện dệt may Việt Nam chưa nằm trong danh mục hàng hóa bị đánh thuế của các nước này, nên chưa bị tác động nhiều.
“6 tháng đầu năm 2018, số lượng đơn hàng của GMC tăng 20% so với cùng kỳ (đơn hàng đã ký trước từ giữa năm 2017)”, ông Hùng nói.
Mặc dù lạc quan, nhưng các doanh nghiệp cũng bày tỏ sự lo ngại liên quan đến vấn đề tỷ giá, thị trường tiêu thụ nội địa và nguồn cung nguyên phụ liệu.
Liên quan đến tỷ giá, ông Tùng cho biết, khi tỷ giá tăng sẽ tác động trực tiếp đến các doanh nghiệp có nợ vay bằng USD như TCM. Do đó, TCM luôn theo sát sự biến động của tỷ giá.
“Hàng tháng, TCM đều có trích lập dự phòng biến động tỷ giá. Kế hoạch năm 2018 được TCM xây dựng dựa trên dự báo tỷ giá tăng 3%. Với diễn biến hiện tại, sự biến động của tỷ giá vẫn nằm trong tầm kiểm soát của Công ty”, ông Tùng cho hay.Ngược lại, là doanh nghiệp xuất khẩu 100%, GMC có phần được hưởng lợi khi đồng USD tăng giá. Dẫu vậy, theo ông Hùng, đồng Nhân dân tệ (NDT) giảm giá mạnh cũng sẽ tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm của Trung Quốc. Điều này nếu kéo dài sẽ ảnh hưởng tới các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã ký kết.
“Chẳng hạn, với thị trường EU, hàng dệt may Việt Nam bị đánh thuế trung bình 9%, nhưng việc NDT mất giá 3% sẽ khiến sản phẩm của Việt Nam không nhiều lợi thế cạnh tranh hơn so với sản phẩm của Trung Quốc”, ông Hùng nêu dẫn chứng.
Về thị trường tiêu thụ nội địa, theo ông Hùng, căng thẳng thương mại Mỹ – Trung leo thang cũng sẽ khiến khả năng tiêu thụ nội địa hàng may mặc của Việt Nam bị ảnh hưởng, bởi việc bị đánh thuế cao tại Mỹ sẽ khiến hàng may mặc Trung Quốc (vốn có mẫu mã phong phú, tiếp cận xu thế thời trang tốt hơn – PV) chuyển hướng và tràn về Việt Nam nhiều hơn.
“Trước thực tế trên, các cơ quan quản lý cần gia tăng giám sát, tránh trường hợp các doanh nghiệp Trung Quốc núp bóng doanh nghiệp Việt Nam để xuất khẩu từ Việt Nam vào thị trường Mỹ. Nếu điều này xảy ra tràn lan, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng khi cơ quan chức năng Mỹ tiến hành điều tra”, ông Hùng cảnh báo.
Về nguồn cung nguyên liệu, theo ông Hòa, việc ngành may Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào nguồn cung nguyên phụ liệu của Trung Quốc được nhìn nhận gây bất lợi cho sự phát triển của các ngành sợi, dệt, may của Việt Nam, nhất là khi các FTA mà Việt Nam đã ký kết như EVFTA, CPTPP… đều yêu cầu nguyên phụ liệu không xuất xứ từ Trung Quốc.
Cũng theo ông Hòa, nếu chiến tranh thương mại Mỹ – Trung leo thang và kéo dài, thì các nhà nhập khẩu từ Mỹ cũng sẽ hạn chế sử dụng nguyên vật liệu có nguồn gốc từ Trung quốc để tránh rủi ro. Bởi vậy, các doanh nghiệp Việt cần chủ động đa dạng hóa nguồn cung nguyên vật liệu, phụ liệu…
“Chúng tôi kỳ vọng Nhà nước có chính sách cụ thể để hổ trợ phát triển ngành công nghiệp phụ trợ như sợi, dệt, nhuộm… để kiện toàn chuỗi cung ứng và gia tăng giá trị sản xuất trong nước, thay vì chỉ gia công như hiện nay”, ông Hòa chia sẻ.
Phan Hằng
Dệt may Việt trong “tâm bão” thương mại Mỹ – Trung: Cơ hội và thách thức song hành
(ĐTCK) Cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung đang diễn biến phức tạp, gây tác động tiêu cực tới nhiều nền kinh tế, nhiều ngành nghề kinh doanh, trong đó có ngành dệt may Việt Nam. Đánh giá sự tác động của sự kiện này, nhiều doanh nghiệp dệt may niêm yết cho rằng, cơ hội và thách thức cùng song hành.Ông Đặng Triệu Hòa, Chủ tịch HĐQT CTCP Sợi Thế Kỷ (STK) đánh giá, cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung đang gây tác động tiêu cực cho kinh tế thế giới. Một khi cuộc chiến này kéo dài sẽ kéo theo những thay đổi về chính sách tỷ giá, lãi suất… của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Đặc biệt, chuỗi cung ứng, cung cầu hàng hóa sẽ phải tái cơ cấu lại, điều này sẽ tác động lớn đến các doanh nghiệp Việt Nam.
“Chúng tôi giữ quan điểm thận trọng và theo dõi sát sao sự kiện này trong những tháng tiếp theo. Tôi cho rằng, việc chiến tranh thương mại Mỹ – Trung leo thang có khả năng làm sụt giảm nhu cầu tiêu thụ toàn cầu, từ đó ảnh hưởng tới tất cả các thành viên trên thị trường”, ông Hòa nói.
Trên thực tế, xu hướng các nhà nhập khẩu Mỹ chuyển đơn hàng từ Trung Quốc sang Việt Nam đã diễn ra trong những năm gần đây và chiến tranh thương mại Mỹ – Trung có thể đẩy tốc độ dịch chuyển đơn hàng sang Việt Nam nhanh hơn.
Theo số liệu của OTEXA, trong giai đoạn 2013-2018, thị phần của Việt Nam trong tổng nhập khẩu hàng may mặc của Mỹ tăng cả về khối lượng lẫn giá trị, trong khi thị phần của Trung Quốc liên tục sụt giảm.Ông Trần Như Tùng, Thành viên HĐQT CTCP Dệt may đầu tư thương mại Thành Công (TCM) cho rằng, trước mắt, chiến tranh thương mại Mỹ – Trung chưa ảnh hưởng nhiều tới ngành dệt may Việt Nam nói chung và TCM nói riêng. Nếu có, sẽ theo hướng tích cực, giúp gia tăng sức cạnh tranh cho ngành dệt may Việt Nam.
Ông Lê Quang Hùng, Chủ tịch HĐQT CTCP Sản xuất thương mại May Sài Gòn (GMC) cho biết, hiện dệt may Việt Nam chưa nằm trong danh mục hàng hóa bị đánh thuế của các nước này, nên chưa bị tác động nhiều.
“6 tháng đầu năm 2018, số lượng đơn hàng của GMC tăng 20% so với cùng kỳ (đơn hàng đã ký trước từ giữa năm 2017)”, ông Hùng nói.
Mặc dù lạc quan, nhưng các doanh nghiệp cũng bày tỏ sự lo ngại liên quan đến vấn đề tỷ giá, thị trường tiêu thụ nội địa và nguồn cung nguyên phụ liệu.
Liên quan đến tỷ giá, ông Tùng cho biết, khi tỷ giá tăng sẽ tác động trực tiếp đến các doanh nghiệp có nợ vay bằng USD như TCM. Do đó, TCM luôn theo sát sự biến động của tỷ giá.
“Hàng tháng, TCM đều có trích lập dự phòng biến động tỷ giá. Kế hoạch năm 2018 được TCM xây dựng dựa trên dự báo tỷ giá tăng 3%. Với diễn biến hiện tại, sự biến động của tỷ giá vẫn nằm trong tầm kiểm soát của Công ty”, ông Tùng cho hay.Ngược lại, là doanh nghiệp xuất khẩu 100%, GMC có phần được hưởng lợi khi đồng USD tăng giá. Dẫu vậy, theo ông Hùng, đồng Nhân dân tệ (NDT) giảm giá mạnh cũng sẽ tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm của Trung Quốc. Điều này nếu kéo dài sẽ ảnh hưởng tới các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã ký kết.
“Chẳng hạn, với thị trường EU, hàng dệt may Việt Nam bị đánh thuế trung bình 9%, nhưng việc NDT mất giá 3% sẽ khiến sản phẩm của Việt Nam không nhiều lợi thế cạnh tranh hơn so với sản phẩm của Trung Quốc”, ông Hùng nêu dẫn chứng.
Về thị trường tiêu thụ nội địa, theo ông Hùng, căng thẳng thương mại Mỹ – Trung leo thang cũng sẽ khiến khả năng tiêu thụ nội địa hàng may mặc của Việt Nam bị ảnh hưởng, bởi việc bị đánh thuế cao tại Mỹ sẽ khiến hàng may mặc Trung Quốc (vốn có mẫu mã phong phú, tiếp cận xu thế thời trang tốt hơn – PV) chuyển hướng và tràn về Việt Nam nhiều hơn.
“Trước thực tế trên, các cơ quan quản lý cần gia tăng giám sát, tránh trường hợp các doanh nghiệp Trung Quốc núp bóng doanh nghiệp Việt Nam để xuất khẩu từ Việt Nam vào thị trường Mỹ. Nếu điều này xảy ra tràn lan, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng khi cơ quan chức năng Mỹ tiến hành điều tra”, ông Hùng cảnh báo.
Về nguồn cung nguyên liệu, theo ông Hòa, việc ngành may Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào nguồn cung nguyên phụ liệu của Trung Quốc được nhìn nhận gây bất lợi cho sự phát triển của các ngành sợi, dệt, may của Việt Nam, nhất là khi các FTA mà Việt Nam đã ký kết như EVFTA, CPTPP… đều yêu cầu nguyên phụ liệu không xuất xứ từ Trung Quốc.
Cũng theo ông Hòa, nếu chiến tranh thương mại Mỹ – Trung leo thang và kéo dài, thì các nhà nhập khẩu từ Mỹ cũng sẽ hạn chế sử dụng nguyên vật liệu có nguồn gốc từ Trung quốc để tránh rủi ro. Bởi vậy, các doanh nghiệp Việt cần chủ động đa dạng hóa nguồn cung nguyên vật liệu, phụ liệu…
“Chúng tôi kỳ vọng Nhà nước có chính sách cụ thể để hổ trợ phát triển ngành công nghiệp phụ trợ như sợi, dệt, nhuộm… để kiện toàn chuỗi cung ứng và gia tăng giá trị sản xuất trong nước, thay vì chỉ gia công như hiện nay”, ông Hòa chia sẻ.
Phan Hằng
Dệt may Việt trong “tâm bão” thương mại Mỹ – Trung: Cơ hội và thách thức song hành
(ĐTCK) Cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung đang diễn biến phức tạp, gây tác động tiêu cực tới nhiều nền kinh tế, nhiều ngành nghề kinh doanh, trong đó có ngành dệt may Việt Nam. Đánh giá sự tác động của sự kiện này, nhiều doanh nghiệp dệt may niêm yết cho rằng, cơ hội và thách thức cùng song hành.Ông Đặng Triệu Hòa, Chủ tịch HĐQT CTCP Sợi Thế Kỷ (STK) đánh giá, cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung đang gây tác động tiêu cực cho kinh tế thế giới. Một khi cuộc chiến này kéo dài sẽ kéo theo những thay đổi về chính sách tỷ giá, lãi suất… của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Đặc biệt, chuỗi cung ứng, cung cầu hàng hóa sẽ phải tái cơ cấu lại, điều này sẽ tác động lớn đến các doanh nghiệp Việt Nam.
“Chúng tôi giữ quan điểm thận trọng và theo dõi sát sao sự kiện này trong những tháng tiếp theo. Tôi cho rằng, việc chiến tranh thương mại Mỹ – Trung leo thang có khả năng làm sụt giảm nhu cầu tiêu thụ toàn cầu, từ đó ảnh hưởng tới tất cả các thành viên trên thị trường”, ông Hòa nói.
Trên thực tế, xu hướng các nhà nhập khẩu Mỹ chuyển đơn hàng từ Trung Quốc sang Việt Nam đã diễn ra trong những năm gần đây và chiến tranh thương mại Mỹ – Trung có thể đẩy tốc độ dịch chuyển đơn hàng sang Việt Nam nhanh hơn.
Theo số liệu của OTEXA, trong giai đoạn 2013-2018, thị phần của Việt Nam trong tổng nhập khẩu hàng may mặc của Mỹ tăng cả về khối lượng lẫn giá trị, trong khi thị phần của Trung Quốc liên tục sụt giảm.Ông Trần Như Tùng, Thành viên HĐQT CTCP Dệt may đầu tư thương mại Thành Công (TCM) cho rằng, trước mắt, chiến tranh thương mại Mỹ – Trung chưa ảnh hưởng nhiều tới ngành dệt may Việt Nam nói chung và TCM nói riêng. Nếu có, sẽ theo hướng tích cực, giúp gia tăng sức cạnh tranh cho ngành dệt may Việt Nam.
Ông Lê Quang Hùng, Chủ tịch HĐQT CTCP Sản xuất thương mại May Sài Gòn (GMC) cho biết, hiện dệt may Việt Nam chưa nằm trong danh mục hàng hóa bị đánh thuế của các nước này, nên chưa bị tác động nhiều.
“6 tháng đầu năm 2018, số lượng đơn hàng của GMC tăng 20% so với cùng kỳ (đơn hàng đã ký trước từ giữa năm 2017)”, ông Hùng nói.
Mặc dù lạc quan, nhưng các doanh nghiệp cũng bày tỏ sự lo ngại liên quan đến vấn đề tỷ giá, thị trường tiêu thụ nội địa và nguồn cung nguyên phụ liệu.
Liên quan đến tỷ giá, ông Tùng cho biết, khi tỷ giá tăng sẽ tác động trực tiếp đến các doanh nghiệp có nợ vay bằng USD như TCM. Do đó, TCM luôn theo sát sự biến động của tỷ giá.
“Hàng tháng, TCM đều có trích lập dự phòng biến động tỷ giá. Kế hoạch năm 2018 được TCM xây dựng dựa trên dự báo tỷ giá tăng 3%. Với diễn biến hiện tại, sự biến động của tỷ giá vẫn nằm trong tầm kiểm soát của Công ty”, ông Tùng cho hay.Ngược lại, là doanh nghiệp xuất khẩu 100%, GMC có phần được hưởng lợi khi đồng USD tăng giá. Dẫu vậy, theo ông Hùng, đồng Nhân dân tệ (NDT) giảm giá mạnh cũng sẽ tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm của Trung Quốc. Điều này nếu kéo dài sẽ ảnh hưởng tới các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã ký kết.
“Chẳng hạn, với thị trường EU, hàng dệt may Việt Nam bị đánh thuế trung bình 9%, nhưng việc NDT mất giá 3% sẽ khiến sản phẩm của Việt Nam không nhiều lợi thế cạnh tranh hơn so với sản phẩm của Trung Quốc”, ông Hùng nêu dẫn chứng.
Về thị trường tiêu thụ nội địa, theo ông Hùng, căng thẳng thương mại Mỹ – Trung leo thang cũng sẽ khiến khả năng tiêu thụ nội địa hàng may mặc của Việt Nam bị ảnh hưởng, bởi việc bị đánh thuế cao tại Mỹ sẽ khiến hàng may mặc Trung Quốc (vốn có mẫu mã phong phú, tiếp cận xu thế thời trang tốt hơn – PV) chuyển hướng và tràn về Việt Nam nhiều hơn.
“Trước thực tế trên, các cơ quan quản lý cần gia tăng giám sát, tránh trường hợp các doanh nghiệp Trung Quốc núp bóng doanh nghiệp Việt Nam để xuất khẩu từ Việt Nam vào thị trường Mỹ. Nếu điều này xảy ra tràn lan, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng khi cơ quan chức năng Mỹ tiến hành điều tra”, ông Hùng cảnh báo.
Về nguồn cung nguyên liệu, theo ông Hòa, việc ngành may Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào nguồn cung nguyên phụ liệu của Trung Quốc được nhìn nhận gây bất lợi cho sự phát triển của các ngành sợi, dệt, may của Việt Nam, nhất là khi các FTA mà Việt Nam đã ký kết như EVFTA, CPTPP… đều yêu cầu nguyên phụ liệu không xuất xứ từ Trung Quốc.
Cũng theo ông Hòa, nếu chiến tranh thương mại Mỹ – Trung leo thang và kéo dài, thì các nhà nhập khẩu từ Mỹ cũng sẽ hạn chế sử dụng nguyên vật liệu có nguồn gốc từ Trung quốc để tránh rủi ro. Bởi vậy, các doanh nghiệp Việt cần chủ động đa dạng hóa nguồn cung nguyên vật liệu, phụ liệu…
“Chúng tôi kỳ vọng Nhà nước có chính sách cụ thể để hổ trợ phát triển ngành công nghiệp phụ trợ như sợi, dệt, nhuộm… để kiện toàn chuỗi cung ứng và gia tăng giá trị sản xuất trong nước, thay vì chỉ gia công như hiện nay”, ông Hòa chia sẻ.
Phan Hằng
Dệt may Việt trong “tâm bão” thương mại Mỹ – Trung: Cơ hội và thách thức song hành
(ĐTCK) Cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung đang diễn biến phức tạp, gây tác động tiêu cực tới nhiều nền kinh tế, nhiều ngành nghề kinh doanh, trong đó có ngành dệt may Việt Nam. Đánh giá sự tác động của sự kiện này, nhiều doanh nghiệp dệt may niêm yết cho rằng, cơ hội và thách thức cùng song hành.Ông Đặng Triệu Hòa, Chủ tịch HĐQT CTCP Sợi Thế Kỷ (STK) đánh giá, cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung đang gây tác động tiêu cực cho kinh tế thế giới. Một khi cuộc chiến này kéo dài sẽ kéo theo những thay đổi về chính sách tỷ giá, lãi suất… của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Đặc biệt, chuỗi cung ứng, cung cầu hàng hóa sẽ phải tái cơ cấu lại, điều này sẽ tác động lớn đến các doanh nghiệp Việt Nam.
“Chúng tôi giữ quan điểm thận trọng và theo dõi sát sao sự kiện này trong những tháng tiếp theo. Tôi cho rằng, việc chiến tranh thương mại Mỹ – Trung leo thang có khả năng làm sụt giảm nhu cầu tiêu thụ toàn cầu, từ đó ảnh hưởng tới tất cả các thành viên trên thị trường”, ông Hòa nói.
Trên thực tế, xu hướng các nhà nhập khẩu Mỹ chuyển đơn hàng từ Trung Quốc sang Việt Nam đã diễn ra trong những năm gần đây và chiến tranh thương mại Mỹ – Trung có thể đẩy tốc độ dịch chuyển đơn hàng sang Việt Nam nhanh hơn.
Theo số liệu của OTEXA, trong giai đoạn 2013-2018, thị phần của Việt Nam trong tổng nhập khẩu hàng may mặc của Mỹ tăng cả về khối lượng lẫn giá trị, trong khi thị phần của Trung Quốc liên tục sụt giảm.Ông Trần Như Tùng, Thành viên HĐQT CTCP Dệt may đầu tư thương mại Thành Công (TCM) cho rằng, trước mắt, chiến tranh thương mại Mỹ – Trung chưa ảnh hưởng nhiều tới ngành dệt may Việt Nam nói chung và TCM nói riêng. Nếu có, sẽ theo hướng tích cực, giúp gia tăng sức cạnh tranh cho ngành dệt may Việt Nam.
Ông Lê Quang Hùng, Chủ tịch HĐQT CTCP Sản xuất thương mại May Sài Gòn (GMC) cho biết, hiện dệt may Việt Nam chưa nằm trong danh mục hàng hóa bị đánh thuế của các nước này, nên chưa bị tác động nhiều.
“6 tháng đầu năm 2018, số lượng đơn hàng của GMC tăng 20% so với cùng kỳ (đơn hàng đã ký trước từ giữa năm 2017)”, ông Hùng nói.
Mặc dù lạc quan, nhưng các doanh nghiệp cũng bày tỏ sự lo ngại liên quan đến vấn đề tỷ giá, thị trường tiêu thụ nội địa và nguồn cung nguyên phụ liệu.
Liên quan đến tỷ giá, ông Tùng cho biết, khi tỷ giá tăng sẽ tác động trực tiếp đến các doanh nghiệp có nợ vay bằng USD như TCM. Do đó, TCM luôn theo sát sự biến động của tỷ giá.
“Hàng tháng, TCM đều có trích lập dự phòng biến động tỷ giá. Kế hoạch năm 2018 được TCM xây dựng dựa trên dự báo tỷ giá tăng 3%. Với diễn biến hiện tại, sự biến động của tỷ giá vẫn nằm trong tầm kiểm soát của Công ty”, ông Tùng cho hay.Ngược lại, là doanh nghiệp xuất khẩu 100%, GMC có phần được hưởng lợi khi đồng USD tăng giá. Dẫu vậy, theo ông Hùng, đồng Nhân dân tệ (NDT) giảm giá mạnh cũng sẽ tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm của Trung Quốc. Điều này nếu kéo dài sẽ ảnh hưởng tới các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã ký kết.
“Chẳng hạn, với thị trường EU, hàng dệt may Việt Nam bị đánh thuế trung bình 9%, nhưng việc NDT mất giá 3% sẽ khiến sản phẩm của Việt Nam không nhiều lợi thế cạnh tranh hơn so với sản phẩm của Trung Quốc”, ông Hùng nêu dẫn chứng.
Về thị trường tiêu thụ nội địa, theo ông Hùng, căng thẳng thương mại Mỹ – Trung leo thang cũng sẽ khiến khả năng tiêu thụ nội địa hàng may mặc của Việt Nam bị ảnh hưởng, bởi việc bị đánh thuế cao tại Mỹ sẽ khiến hàng may mặc Trung Quốc (vốn có mẫu mã phong phú, tiếp cận xu thế thời trang tốt hơn – PV) chuyển hướng và tràn về Việt Nam nhiều hơn.
“Trước thực tế trên, các cơ quan quản lý cần gia tăng giám sát, tránh trường hợp các doanh nghiệp Trung Quốc núp bóng doanh nghiệp Việt Nam để xuất khẩu từ Việt Nam vào thị trường Mỹ. Nếu điều này xảy ra tràn lan, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng khi cơ quan chức năng Mỹ tiến hành điều tra”, ông Hùng cảnh báo.
Về nguồn cung nguyên liệu, theo ông Hòa, việc ngành may Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào nguồn cung nguyên phụ liệu của Trung Quốc được nhìn nhận gây bất lợi cho sự phát triển của các ngành sợi, dệt, may của Việt Nam, nhất là khi các FTA mà Việt Nam đã ký kết như EVFTA, CPTPP… đều yêu cầu nguyên phụ liệu không xuất xứ từ Trung Quốc.
Cũng theo ông Hòa, nếu chiến tranh thương mại Mỹ – Trung leo thang và kéo dài, thì các nhà nhập khẩu từ Mỹ cũng sẽ hạn chế sử dụng nguyên vật liệu có nguồn gốc từ Trung quốc để tránh rủi ro. Bởi vậy, các doanh nghiệp Việt cần chủ động đa dạng hóa nguồn cung nguyên vật liệu, phụ liệu…
“Chúng tôi kỳ vọng Nhà nước có chính sách cụ thể để hổ trợ phát triển ngành công nghiệp phụ trợ như sợi, dệt, nhuộm… để kiện toàn chuỗi cung ứng và gia tăng giá trị sản xuất trong nước, thay vì chỉ gia công như hiện nay”, ông Hòa chia sẻ.
Phan Hằng
Ông Đặng Triệu Hòa, Chủ tịch HĐQT CTCP Sợi Thế Kỷ (STK) đánh giá, cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung đang gây tác động tiêu cực cho kinh tế thế giới. Một khi cuộc chiến này kéo dài sẽ kéo theo những thay đổi về chính sách tỷ giá, lãi suất… của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Đặc biệt, chuỗi cung ứng, cung cầu hàng hóa sẽ phải tái cơ cấu lại, điều này sẽ tác động lớn đến các doanh nghiệp Việt Nam.
“Chúng tôi giữ quan điểm thận trọng và theo dõi sát sao sự kiện này trong những tháng tiếp theo. Tôi cho rằng, việc chiến tranh thương mại Mỹ – Trung leo thang có khả năng làm sụt giảm nhu cầu tiêu thụ toàn cầu, từ đó ảnh hưởng tới tất cả các thành viên trên thị trường”, ông Hòa nói.
Trên thực tế, xu hướng các nhà nhập khẩu Mỹ chuyển đơn hàng từ Trung Quốc sang Việt Nam đã diễn ra trong những năm gần đây và chiến tranh thương mại Mỹ – Trung có thể đẩy tốc độ dịch chuyển đơn hàng sang Việt Nam nhanh hơn.
Ông Trần Như Tùng, Thành viên HĐQT CTCP Dệt may đầu tư thương mại Thành Công (TCM) cho rằng, trước mắt, chiến tranh thương mại Mỹ – Trung chưa ảnh hưởng nhiều tới ngành dệt may Việt Nam nói chung và TCM nói riêng. Nếu có, sẽ theo hướng tích cực, giúp gia tăng sức cạnh tranh cho ngành dệt may Việt Nam.
Ông Lê Quang Hùng, Chủ tịch HĐQT CTCP Sản xuất thương mại May Sài Gòn (GMC) cho biết, hiện dệt may Việt Nam chưa nằm trong danh mục hàng hóa bị đánh thuế của các nước này, nên chưa bị tác động nhiều.
“6 tháng đầu năm 2018, số lượng đơn hàng của GMC tăng 20% so với cùng kỳ (đơn hàng đã ký trước từ giữa năm 2017)”, ông Hùng nói.
Mặc dù lạc quan, nhưng các doanh nghiệp cũng bày tỏ sự lo ngại liên quan đến vấn đề tỷ giá, thị trường tiêu thụ nội địa và nguồn cung nguyên phụ liệu.
Liên quan đến tỷ giá, ông Tùng cho biết, khi tỷ giá tăng sẽ tác động trực tiếp đến các doanh nghiệp có nợ vay bằng USD như TCM. Do đó, TCM luôn theo sát sự biến động của tỷ giá.
Ngược lại, là doanh nghiệp xuất khẩu 100%, GMC có phần được hưởng lợi khi đồng USD tăng giá. Dẫu vậy, theo ông Hùng, đồng Nhân dân tệ (NDT) giảm giá mạnh cũng sẽ tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm của Trung Quốc. Điều này nếu kéo dài sẽ ảnh hưởng tới các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã ký kết.
“Chẳng hạn, với thị trường EU, hàng dệt may Việt Nam bị đánh thuế trung bình 9%, nhưng việc NDT mất giá 3% sẽ khiến sản phẩm của Việt Nam không nhiều lợi thế cạnh tranh hơn so với sản phẩm của Trung Quốc”, ông Hùng nêu dẫn chứng.
Về thị trường tiêu thụ nội địa, theo ông Hùng, căng thẳng thương mại Mỹ – Trung leo thang cũng sẽ khiến khả năng tiêu thụ nội địa hàng may mặc của Việt Nam bị ảnh hưởng, bởi việc bị đánh thuế cao tại Mỹ sẽ khiến hàng may mặc Trung Quốc (vốn có mẫu mã phong phú, tiếp cận xu thế thời trang tốt hơn – PV) chuyển hướng và tràn về Việt Nam nhiều hơn.
“Trước thực tế trên, các cơ quan quản lý cần gia tăng giám sát, tránh trường hợp các doanh nghiệp Trung Quốc núp bóng doanh nghiệp Việt Nam để xuất khẩu từ Việt Nam vào thị trường Mỹ. Nếu điều này xảy ra tràn lan, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng khi cơ quan chức năng Mỹ tiến hành điều tra”, ông Hùng cảnh báo.
Về nguồn cung nguyên liệu, theo ông Hòa, việc ngành may Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào nguồn cung nguyên phụ liệu của Trung Quốc được nhìn nhận gây bất lợi cho sự phát triển của các ngành sợi, dệt, may của Việt Nam, nhất là khi các FTA mà Việt Nam đã ký kết như EVFTA, CPTPP… đều yêu cầu nguyên phụ liệu không xuất xứ từ Trung Quốc.
Cũng theo ông Hòa, nếu chiến tranh thương mại Mỹ – Trung leo thang và kéo dài, thì các nhà nhập khẩu từ Mỹ cũng sẽ hạn chế sử dụng nguyên vật liệu có nguồn gốc từ Trung quốc để tránh rủi ro. Bởi vậy, các doanh nghiệp Việt cần chủ động đa dạng hóa nguồn cung nguyên vật liệu, phụ liệu…
“Chúng tôi kỳ vọng Nhà nước có chính sách cụ thể để hổ trợ phát triển ngành công nghiệp phụ trợ như sợi, dệt, nhuộm… để kiện toàn chuỗi cung ứng và gia tăng giá trị sản xuất trong nước, thay vì chỉ gia công như hiện nay”, ông Hòa chia sẻ.
Thông báo kết quả giao dịch người nội bộ Nguyễn Tự Lực.
Thông báo kết quả giao dịch người nội bộ Nguyễn Tự Lực.
FTA Việt Nam – EU đã hoàn tất khâu rà soát, chuẩn bị ký kết
FTA Việt Nam – EU đã hoàn tất khâu rà soát, chuẩn bị ký kết
TTO – Bộ Công thương cho biết, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA ) vừa kết thúc toàn bộ quá trình rà soát pháp lý, tiến tới chính thức ký kết và sau đó là phê chuẩn.Theo thông cáo của Bộ Công thương phát đi ngày 26-6, nội dung trên được thống nhất tại phiên làm việc giữa Bộ trưởng Công thương Việt Nam Trần Tuấn Anh và Cao ủy Thương mại EU Cecilia Malmström vào ngày 25-6-2018 tại Brussels, Vương quốc Bỉ.
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) được Lãnh đạo Việt Nam và EU tuyên bố kết thúc đàm phán vào ngày 2-12-2015 và hai bên đã rà soát pháp lý để chuẩn bị cho việc ký kết.
Tuy nhiên, sau đó có thay đổi liên quan đến quy trình phê chuẩn các hiệp định thương mại tự do của EU.
Theo các quy định mới của EU, tương tự như đối với các đối tác khác của EU như Nhật Bản và Singapore, EU đã đề xuất tách riêng nội dung bảo hộ đầu tư và cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Nhà nước và nhà đầu tư (ISDS) ra khỏi Hiệp định EVFTA thành một hiệp định riêng (gọi là Hiệp định Bảo hộ đầu tư – IPA).
Sau một thời gian trao đổi tích cực, hai bên đã chính thức kết thúc toàn bộ quá trình rà soát pháp lý EVFTA và thống nhất toàn bộ các nội dung của IPA.
“Hai Hiệp định sẽ được trình các cơ quan có thẩm quyền để có thể sớm đi đến ký kết và phê chuẩn theo đúng quy trình pháp luật của hai bên”, Bộ Công thương cho biết.
FTA Việt Nam – EU đã hoàn tất khâu rà soát, chuẩn bị ký kết
TTO – Bộ Công thương cho biết, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA ) vừa kết thúc toàn bộ quá trình rà soát pháp lý, tiến tới chính thức ký kết và sau đó là phê chuẩn.Theo thông cáo của Bộ Công thương phát đi ngày 26-6, nội dung trên được thống nhất tại phiên làm việc giữa Bộ trưởng Công thương Việt Nam Trần Tuấn Anh và Cao ủy Thương mại EU Cecilia Malmström vào ngày 25-6-2018 tại Brussels, Vương quốc Bỉ.
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) được Lãnh đạo Việt Nam và EU tuyên bố kết thúc đàm phán vào ngày 2-12-2015 và hai bên đã rà soát pháp lý để chuẩn bị cho việc ký kết.
Tuy nhiên, sau đó có thay đổi liên quan đến quy trình phê chuẩn các hiệp định thương mại tự do của EU.
Theo các quy định mới của EU, tương tự như đối với các đối tác khác của EU như Nhật Bản và Singapore, EU đã đề xuất tách riêng nội dung bảo hộ đầu tư và cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Nhà nước và nhà đầu tư (ISDS) ra khỏi Hiệp định EVFTA thành một hiệp định riêng (gọi là Hiệp định Bảo hộ đầu tư – IPA).
Sau một thời gian trao đổi tích cực, hai bên đã chính thức kết thúc toàn bộ quá trình rà soát pháp lý EVFTA và thống nhất toàn bộ các nội dung của IPA.
“Hai Hiệp định sẽ được trình các cơ quan có thẩm quyền để có thể sớm đi đến ký kết và phê chuẩn theo đúng quy trình pháp luật của hai bên”, Bộ Công thương cho biết.
FTA Việt Nam – EU đã hoàn tất khâu rà soát, chuẩn bị ký kết
TTO – Bộ Công thương cho biết, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA ) vừa kết thúc toàn bộ quá trình rà soát pháp lý, tiến tới chính thức ký kết và sau đó là phê chuẩn.Theo thông cáo của Bộ Công thương phát đi ngày 26-6, nội dung trên được thống nhất tại phiên làm việc giữa Bộ trưởng Công thương Việt Nam Trần Tuấn Anh và Cao ủy Thương mại EU Cecilia Malmström vào ngày 25-6-2018 tại Brussels, Vương quốc Bỉ.
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) được Lãnh đạo Việt Nam và EU tuyên bố kết thúc đàm phán vào ngày 2-12-2015 và hai bên đã rà soát pháp lý để chuẩn bị cho việc ký kết.
Tuy nhiên, sau đó có thay đổi liên quan đến quy trình phê chuẩn các hiệp định thương mại tự do của EU.
Theo các quy định mới của EU, tương tự như đối với các đối tác khác của EU như Nhật Bản và Singapore, EU đã đề xuất tách riêng nội dung bảo hộ đầu tư và cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Nhà nước và nhà đầu tư (ISDS) ra khỏi Hiệp định EVFTA thành một hiệp định riêng (gọi là Hiệp định Bảo hộ đầu tư – IPA).
Sau một thời gian trao đổi tích cực, hai bên đã chính thức kết thúc toàn bộ quá trình rà soát pháp lý EVFTA và thống nhất toàn bộ các nội dung của IPA.
“Hai Hiệp định sẽ được trình các cơ quan có thẩm quyền để có thể sớm đi đến ký kết và phê chuẩn theo đúng quy trình pháp luật của hai bên”, Bộ Công thương cho biết.
FTA Việt Nam – EU đã hoàn tất khâu rà soát, chuẩn bị ký kết
Theo thông cáo của Bộ Công thương phát đi ngày 26-6, nội dung trên được thống nhất tại phiên làm việc giữa Bộ trưởng Công thương Việt Nam Trần Tuấn Anh và Cao ủy Thương mại EU Cecilia Malmström vào ngày 25-6-2018 tại Brussels, Vương quốc Bỉ.
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) được Lãnh đạo Việt Nam và EU tuyên bố kết thúc đàm phán vào ngày 2-12-2015 và hai bên đã rà soát pháp lý để chuẩn bị cho việc ký kết.
Tuy nhiên, sau đó có thay đổi liên quan đến quy trình phê chuẩn các hiệp định thương mại tự do của EU.
Theo các quy định mới của EU, tương tự như đối với các đối tác khác của EU như Nhật Bản và Singapore, EU đã đề xuất tách riêng nội dung bảo hộ đầu tư và cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Nhà nước và nhà đầu tư (ISDS) ra khỏi Hiệp định EVFTA thành một hiệp định riêng (gọi là Hiệp định Bảo hộ đầu tư – IPA).
Sau một thời gian trao đổi tích cực, hai bên đã chính thức kết thúc toàn bộ quá trình rà soát pháp lý EVFTA và thống nhất toàn bộ các nội dung của IPA.
“Hai Hiệp định sẽ được trình các cơ quan có thẩm quyền để có thể sớm đi đến ký kết và phê chuẩn theo đúng quy trình pháp luật của hai bên”, Bộ Công thương cho biết.