Tháng: Tháng Tư 2016
Dệt may nguy cơ “trèo cột mỡ” hái quả từ TPP?
VOV.VN - Dệt may Việt Nam đang phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu, trong khi đó để hưởng lợi thuế suất từ TPP, phải có nguồn nguyên liệu nội TPP.
Theo Bộ Công Thương, dệt may Việt Nam được coi là lợi ích cốt lõi khi gia nhập Hiệp định TPP, tuy nhiên ngành dệt may đang phải đối mặt với thách thức lớn về chuỗi cung ứng để đáp ứng nhu cầu hội nhập.
Doanh nghiệp nội “lực bất tòng tâm”
Theo quy định của Hiệp định TPP, hàng hóa nếu muốn được hưởng thuế suất ưu đãi phải đáp ứng quy tắc xuất xứ của Hiệp định này. Đối với dệt may, quy tắc xuất xứ chủ đạo là “từ sợi trở đi”, nghĩa là toàn bộ quá trình kéo sợi, dệt vải, nhuộm và may quần áo phải được thực hiện trong phạm vi các nước tham gia TPP.
Quy định này, theo TS. Trần Thị Minh Hương (Đại học Kinh tế Quốc dân), là “khuyến khích ngành công nghiệp dệt may Việt Nam phát triển hơn, đầu tư phát triển ngành sợi, vải, tạo cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng trong khối các nước TPP”.
Tuy nhiên hiện nay, dệt may trong nước đang phải nhập khẩu 60% nguyên liệu của Trung Quốc. Trong nước chỉ sản xuất được 40% nguyên liệu nhưng chủ yếu là hàng dệt kim, công nghệ đơn giản. Đối với dệt thoi thì từ 70 đến 80% là nhập khẩu.
Trong khi đó, về nguyên liệu sản xuất trong nước, trung bình mỗi năm các DN trong nước sản xuất được khoảng 1 tỷ mét vải. Đối với mặt hàng sợi, một năm trong nước sản xuất khoảng 1,2 triệu tấn nhưng xuất khẩu 700 - 800 ngàn tấn. “Nghịch lý ở chỗ trong khi vải trong nước chủ yếu là để xuất khẩu thì các DN làm hàng xuất khẩu lại phải nhập vải từ nước ngoài. Tương tự, lượng sợi phải nhập khẩu cũng tương đương lượng sợi xuất đi”- TS. Trần Thị Minh Hương đánh giá.Một điểm nữa rất đáng lưu ý là, điều kiện về xóa bỏ thuế quan với dệt may thì, dệt may được đánh giá là ngành có thể hưởng lợi nhiều do hiện tại thuế suất vào thị trường các nước TPP mà Việt Nam chưa ký hiệp định thương mại tự do đang ở mức khá cao, như Hoa Kỳ (17,5%), Canada (17%), Mexico (30%), Peru (17%).
Khi TPP có hiệu lực, thuế suất sẽ giảm mạnh. Trong đó, với thị trường Hoa Kỳ, 73,1% số dòng thuế sẽ lập tức về 0% ngay khi TPP có hiệu lực; 19,7% số dòng thuế sẽ được giảm từ 35-50% tại thời điểm đó và sẽ xóa bỏ hoàn toàn vào năm thứ 11 và 13. Với Canada, các mặt hàng dệt may xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sẽ có thuế suất 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực hoặc sau 3 năm. Còn thuế nhập khẩu vào Mexico và Peru chỉ được xóa bỏ hoàn toàn vào năm thứ 16.
Như vậy, “cửa” về cơ hội mà TPP mang lại cho dệt may VN thì rộng, nhưng để có thể hưởng lợi thực sự không phải dễ. Trước thực trạng này, Bộ Công Thương nhìn nhận: Nhận thức rõ cơ hội khi gia nhập TPP nếu đảm bảo đủ điều kiện xuất xứ nguyên liệu, tuy nhiên DN trong nước gần như “lực bất tòng tâm” vì đầu tư sản xuất nguyên liệu đòi hỏi số vốn lớn. Để đầu tư một nhà máy dệt, nhuộm cần phải có hàng chục triệu USD việc này là quá khả năng của các DN vừa và nhỏ trong ngành dệt may.
Cho nên, theo TS. Trần Thị Minh Hương, “thách thức lớn nhất với dệt may Việt Nam là về quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi”, vì hiện dệt may nước ta vẫn phụ thuộc quá lớn vào nguyên phụ liệu nhập khẩu. Các doanh nghiệp trong nước còn chịu sức ép cạnh tranh rất lớn từ việc các DN Trung Quốc, Đài Loan đang gia tăng đầu tư tại Việt Nam để đón đầu hưởng lợi từ TPP”.
Làm gia công, không quyết được nguyên liệu sản xuất
Về nguyên nhân ngành dệt may nhập khẩu nguyên liệu kéo dài, Bộ Công Thương lý giải do doanh nghiệp (DN) Việt Nam chủ yếu là gia công hoặc là sản xuất theo chỉ định của các DN nước ngoài nên không thể quyết định nguyên liệu sản xuất. Bên cạnh đó, phần lớn DN trong nước còn sử dụng công nghệ lạc hậu, mẫu mã nghèo nàn, chất lượng sản phẩm không đáp ứng nhu cầu khách hàng nên không thể cạnh tranh.
Trước thực trạng trên, các chuyên gia cho rằng, để giải bài toán về xuất xứ nguyên liệu trong TPP các DN trong ngành dệt may phải phối hợp với nhau. DN xuất khẩu phải chủ động tìm đến DN sản xuất nguyên liệu nhằm giảm tối đa tình trạng nhập khẩu. Đây chính là hình thức vừa đảm bảo quy tắc xuất xứ nguyên liệu, vừa đảm bảo tính cạnh tranh về giá cả.
Tuy nhiên, thực tế thì, theo TS. Trần Thị Minh Hương, mối liên kết trong nội bộ ngành từ sợi – dệt nhuộm- may còn yếu. Chuỗi giá trị của ngành dệt may bao gồm 5 công đoạn cơ bản: cung cấp sản phẩm thô (sợi, chỉ sợi, vải), may hoàn thiện, xuất khẩu, marketing và phân phối. Trong chuỗi giá trị này, dệt may Việt Nam chủ yếu hoạt động ở công đoạn may là công đoạn được đánh giá có giá trị gia tăng thấp nhất.
Cẩn trọng lọc vốn FDI vào dệt may
Muốn hưởng lợi từ TPP, TS. Trần Thị Minh Hương khuyến nghị Nhà nước ta cần xây dựng chiến lược phát triển ngành dệt may, trong đó không nên dừng ở hình thức gia công mà cần nỗ lực chuyển sang các hình thức sản xuất và xuất khẩu khác, tham gia nhiều hơn vào marketing và phân phối sẽ tạo giá trị gia tăng nhiều hơn.
Cần có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho ngành dệt may, như: phát triển vùng nguyên liệu trong nước; ưu đãi thu hút đầu tư vào phát triển công nghiệp phụ trợ, sợi, dệt, nhuộm (ưu đãi quỹ đất, giá thuê đất, tín dụng lãi suất thấp); cẩn trọng thu hút FDI trong lĩnh vực dệt may; khuyến khích doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu trọng gói từ thiết kế đến thành phẩm.
Bản thân doanh nghiệp cũng cần chủ động, kịp thời nắm bắt các thông tin thị trường, quy định của TPP, từ đó xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp. Doanh nghiệp cần tham gia sâu hơn vào khâu bán hàng và phân phối trong chuỗi giá trị ngành. Đặc biệt, cần làm chủ thiết kế thời trang để xây dựng thương hiệu sản phẩm dệt may Việt Nam.
Đồng thời, cần chú trọng đào tạo nhân lực, cải thiện công nghệ, tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, nâng sức cạnh tranh trên thị trường.
Đặc biệt, các doanh nghiệp trong ngành cần nâng cao mối liên kết, sử dụng sản phẩm của nhau tạo thành chuỗi cung ứng hoàn thiện hơn.../.
Xuân ThânVOV.VN27/4/2016
VOV.VN - Dệt may Việt Nam đang phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu, trong khi đó để hưởng lợi thuế suất từ TPP, phải có nguồn nguyên liệu nội TPP.
Theo Bộ Công Thương, dệt may Việt Nam được coi là lợi ích cốt lõi khi gia nhập Hiệp định TPP, tuy nhiên ngành dệt may đang phải đối mặt với thách thức lớn về chuỗi cung ứng để đáp ứng nhu cầu hội nhập.
Doanh nghiệp nội “lực bất tòng tâm”
Theo quy định của Hiệp định TPP, hàng hóa nếu muốn được hưởng thuế suất ưu đãi phải đáp ứng quy tắc xuất xứ của Hiệp định này. Đối với dệt may, quy tắc xuất xứ chủ đạo là “từ sợi trở đi”, nghĩa là toàn bộ quá trình kéo sợi, dệt vải, nhuộm và may quần áo phải được thực hiện trong phạm vi các nước tham gia TPP.
Quy định này, theo TS. Trần Thị Minh Hương (Đại học Kinh tế Quốc dân), là “khuyến khích ngành công nghiệp dệt may Việt Nam phát triển hơn, đầu tư phát triển ngành sợi, vải, tạo cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng trong khối các nước TPP”.
Tuy nhiên hiện nay, dệt may trong nước đang phải nhập khẩu 60% nguyên liệu của Trung Quốc. Trong nước chỉ sản xuất được 40% nguyên liệu nhưng chủ yếu là hàng dệt kim, công nghệ đơn giản. Đối với dệt thoi thì từ 70 đến 80% là nhập khẩu.
Trong khi đó, về nguyên liệu sản xuất trong nước, trung bình mỗi năm các DN trong nước sản xuất được khoảng 1 tỷ mét vải. Đối với mặt hàng sợi, một năm trong nước sản xuất khoảng 1,2 triệu tấn nhưng xuất khẩu 700 - 800 ngàn tấn. “Nghịch lý ở chỗ trong khi vải trong nước chủ yếu là để xuất khẩu thì các DN làm hàng xuất khẩu lại phải nhập vải từ nước ngoài. Tương tự, lượng sợi phải nhập khẩu cũng tương đương lượng sợi xuất đi”- TS. Trần Thị Minh Hương đánh giá.Một điểm nữa rất đáng lưu ý là, điều kiện về xóa bỏ thuế quan với dệt may thì, dệt may được đánh giá là ngành có thể hưởng lợi nhiều do hiện tại thuế suất vào thị trường các nước TPP mà Việt Nam chưa ký hiệp định thương mại tự do đang ở mức khá cao, như Hoa Kỳ (17,5%), Canada (17%), Mexico (30%), Peru (17%).
Khi TPP có hiệu lực, thuế suất sẽ giảm mạnh. Trong đó, với thị trường Hoa Kỳ, 73,1% số dòng thuế sẽ lập tức về 0% ngay khi TPP có hiệu lực; 19,7% số dòng thuế sẽ được giảm từ 35-50% tại thời điểm đó và sẽ xóa bỏ hoàn toàn vào năm thứ 11 và 13. Với Canada, các mặt hàng dệt may xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sẽ có thuế suất 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực hoặc sau 3 năm. Còn thuế nhập khẩu vào Mexico và Peru chỉ được xóa bỏ hoàn toàn vào năm thứ 16.
Như vậy, “cửa” về cơ hội mà TPP mang lại cho dệt may VN thì rộng, nhưng để có thể hưởng lợi thực sự không phải dễ. Trước thực trạng này, Bộ Công Thương nhìn nhận: Nhận thức rõ cơ hội khi gia nhập TPP nếu đảm bảo đủ điều kiện xuất xứ nguyên liệu, tuy nhiên DN trong nước gần như “lực bất tòng tâm” vì đầu tư sản xuất nguyên liệu đòi hỏi số vốn lớn. Để đầu tư một nhà máy dệt, nhuộm cần phải có hàng chục triệu USD việc này là quá khả năng của các DN vừa và nhỏ trong ngành dệt may.
Cho nên, theo TS. Trần Thị Minh Hương, “thách thức lớn nhất với dệt may Việt Nam là về quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi”, vì hiện dệt may nước ta vẫn phụ thuộc quá lớn vào nguyên phụ liệu nhập khẩu. Các doanh nghiệp trong nước còn chịu sức ép cạnh tranh rất lớn từ việc các DN Trung Quốc, Đài Loan đang gia tăng đầu tư tại Việt Nam để đón đầu hưởng lợi từ TPP”.
Làm gia công, không quyết được nguyên liệu sản xuất
Về nguyên nhân ngành dệt may nhập khẩu nguyên liệu kéo dài, Bộ Công Thương lý giải do doanh nghiệp (DN) Việt Nam chủ yếu là gia công hoặc là sản xuất theo chỉ định của các DN nước ngoài nên không thể quyết định nguyên liệu sản xuất. Bên cạnh đó, phần lớn DN trong nước còn sử dụng công nghệ lạc hậu, mẫu mã nghèo nàn, chất lượng sản phẩm không đáp ứng nhu cầu khách hàng nên không thể cạnh tranh.
Trước thực trạng trên, các chuyên gia cho rằng, để giải bài toán về xuất xứ nguyên liệu trong TPP các DN trong ngành dệt may phải phối hợp với nhau. DN xuất khẩu phải chủ động tìm đến DN sản xuất nguyên liệu nhằm giảm tối đa tình trạng nhập khẩu. Đây chính là hình thức vừa đảm bảo quy tắc xuất xứ nguyên liệu, vừa đảm bảo tính cạnh tranh về giá cả.
Tuy nhiên, thực tế thì, theo TS. Trần Thị Minh Hương, mối liên kết trong nội bộ ngành từ sợi – dệt nhuộm- may còn yếu. Chuỗi giá trị của ngành dệt may bao gồm 5 công đoạn cơ bản: cung cấp sản phẩm thô (sợi, chỉ sợi, vải), may hoàn thiện, xuất khẩu, marketing và phân phối. Trong chuỗi giá trị này, dệt may Việt Nam chủ yếu hoạt động ở công đoạn may là công đoạn được đánh giá có giá trị gia tăng thấp nhất.
Cẩn trọng lọc vốn FDI vào dệt may
Muốn hưởng lợi từ TPP, TS. Trần Thị Minh Hương khuyến nghị Nhà nước ta cần xây dựng chiến lược phát triển ngành dệt may, trong đó không nên dừng ở hình thức gia công mà cần nỗ lực chuyển sang các hình thức sản xuất và xuất khẩu khác, tham gia nhiều hơn vào marketing và phân phối sẽ tạo giá trị gia tăng nhiều hơn.
Cần có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho ngành dệt may, như: phát triển vùng nguyên liệu trong nước; ưu đãi thu hút đầu tư vào phát triển công nghiệp phụ trợ, sợi, dệt, nhuộm (ưu đãi quỹ đất, giá thuê đất, tín dụng lãi suất thấp); cẩn trọng thu hút FDI trong lĩnh vực dệt may; khuyến khích doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu trọng gói từ thiết kế đến thành phẩm.
Bản thân doanh nghiệp cũng cần chủ động, kịp thời nắm bắt các thông tin thị trường, quy định của TPP, từ đó xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp. Doanh nghiệp cần tham gia sâu hơn vào khâu bán hàng và phân phối trong chuỗi giá trị ngành. Đặc biệt, cần làm chủ thiết kế thời trang để xây dựng thương hiệu sản phẩm dệt may Việt Nam.
Đồng thời, cần chú trọng đào tạo nhân lực, cải thiện công nghệ, tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, nâng sức cạnh tranh trên thị trường.
Đặc biệt, các doanh nghiệp trong ngành cần nâng cao mối liên kết, sử dụng sản phẩm của nhau tạo thành chuỗi cung ứng hoàn thiện hơn.../.
Xuân ThânVOV.VN27/4/2016
Theo Bộ Công Thương, dệt may Việt Nam được coi là lợi ích cốt lõi khi gia nhập Hiệp định TPP, tuy nhiên ngành dệt may đang phải đối mặt với thách thức lớn về chuỗi cung ứng để đáp ứng nhu cầu hội nhập.
Doanh nghiệp nội “lực bất tòng tâm”
Theo quy định của Hiệp định TPP, hàng hóa nếu muốn được hưởng thuế suất ưu đãi phải đáp ứng quy tắc xuất xứ của Hiệp định này. Đối với dệt may, quy tắc xuất xứ chủ đạo là “từ sợi trở đi”, nghĩa là toàn bộ quá trình kéo sợi, dệt vải, nhuộm và may quần áo phải được thực hiện trong phạm vi các nước tham gia TPP.
Quy định này, theo TS. Trần Thị Minh Hương (Đại học Kinh tế Quốc dân), là “khuyến khích ngành công nghiệp dệt may Việt Nam phát triển hơn, đầu tư phát triển ngành sợi, vải, tạo cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng trong khối các nước TPP”.
Tuy nhiên hiện nay, dệt may trong nước đang phải nhập khẩu 60% nguyên liệu của Trung Quốc. Trong nước chỉ sản xuất được 40% nguyên liệu nhưng chủ yếu là hàng dệt kim, công nghệ đơn giản. Đối với dệt thoi thì từ 70 đến 80% là nhập khẩu.
Một điểm nữa rất đáng lưu ý là, điều kiện về xóa bỏ thuế quan với dệt may thì, dệt may được đánh giá là ngành có thể hưởng lợi nhiều do hiện tại thuế suất vào thị trường các nước TPP mà Việt Nam chưa ký hiệp định thương mại tự do đang ở mức khá cao, như Hoa Kỳ (17,5%), Canada (17%), Mexico (30%), Peru (17%).
Khi TPP có hiệu lực, thuế suất sẽ giảm mạnh. Trong đó, với thị trường Hoa Kỳ, 73,1% số dòng thuế sẽ lập tức về 0% ngay khi TPP có hiệu lực; 19,7% số dòng thuế sẽ được giảm từ 35-50% tại thời điểm đó và sẽ xóa bỏ hoàn toàn vào năm thứ 11 và 13. Với Canada, các mặt hàng dệt may xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sẽ có thuế suất 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực hoặc sau 3 năm. Còn thuế nhập khẩu vào Mexico và Peru chỉ được xóa bỏ hoàn toàn vào năm thứ 16.
Như vậy, “cửa” về cơ hội mà TPP mang lại cho dệt may VN thì rộng, nhưng để có thể hưởng lợi thực sự không phải dễ. Trước thực trạng này, Bộ Công Thương nhìn nhận: Nhận thức rõ cơ hội khi gia nhập TPP nếu đảm bảo đủ điều kiện xuất xứ nguyên liệu, tuy nhiên DN trong nước gần như “lực bất tòng tâm” vì đầu tư sản xuất nguyên liệu đòi hỏi số vốn lớn. Để đầu tư một nhà máy dệt, nhuộm cần phải có hàng chục triệu USD việc này là quá khả năng của các DN vừa và nhỏ trong ngành dệt may.
Cho nên, theo TS. Trần Thị Minh Hương, “thách thức lớn nhất với dệt may Việt Nam là về quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi”, vì hiện dệt may nước ta vẫn phụ thuộc quá lớn vào nguyên phụ liệu nhập khẩu. Các doanh nghiệp trong nước còn chịu sức ép cạnh tranh rất lớn từ việc các DN Trung Quốc, Đài Loan đang gia tăng đầu tư tại Việt Nam để đón đầu hưởng lợi từ TPP”.
Làm gia công, không quyết được nguyên liệu sản xuất
Về nguyên nhân ngành dệt may nhập khẩu nguyên liệu kéo dài, Bộ Công Thương lý giải do doanh nghiệp (DN) Việt Nam chủ yếu là gia công hoặc là sản xuất theo chỉ định của các DN nước ngoài nên không thể quyết định nguyên liệu sản xuất. Bên cạnh đó, phần lớn DN trong nước còn sử dụng công nghệ lạc hậu, mẫu mã nghèo nàn, chất lượng sản phẩm không đáp ứng nhu cầu khách hàng nên không thể cạnh tranh.
Trước thực trạng trên, các chuyên gia cho rằng, để giải bài toán về xuất xứ nguyên liệu trong TPP các DN trong ngành dệt may phải phối hợp với nhau. DN xuất khẩu phải chủ động tìm đến DN sản xuất nguyên liệu nhằm giảm tối đa tình trạng nhập khẩu. Đây chính là hình thức vừa đảm bảo quy tắc xuất xứ nguyên liệu, vừa đảm bảo tính cạnh tranh về giá cả.
Tuy nhiên, thực tế thì, theo TS. Trần Thị Minh Hương, mối liên kết trong nội bộ ngành từ sợi – dệt nhuộm- may còn yếu. Chuỗi giá trị của ngành dệt may bao gồm 5 công đoạn cơ bản: cung cấp sản phẩm thô (sợi, chỉ sợi, vải), may hoàn thiện, xuất khẩu, marketing và phân phối. Trong chuỗi giá trị này, dệt may Việt Nam chủ yếu hoạt động ở công đoạn may là công đoạn được đánh giá có giá trị gia tăng thấp nhất.
Cẩn trọng lọc vốn FDI vào dệt may
Muốn hưởng lợi từ TPP, TS. Trần Thị Minh Hương khuyến nghị Nhà nước ta cần xây dựng chiến lược phát triển ngành dệt may, trong đó không nên dừng ở hình thức gia công mà cần nỗ lực chuyển sang các hình thức sản xuất và xuất khẩu khác, tham gia nhiều hơn vào marketing và phân phối sẽ tạo giá trị gia tăng nhiều hơn.
Cần có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho ngành dệt may, như: phát triển vùng nguyên liệu trong nước; ưu đãi thu hút đầu tư vào phát triển công nghiệp phụ trợ, sợi, dệt, nhuộm (ưu đãi quỹ đất, giá thuê đất, tín dụng lãi suất thấp); cẩn trọng thu hút FDI trong lĩnh vực dệt may; khuyến khích doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu trọng gói từ thiết kế đến thành phẩm.
Bản thân doanh nghiệp cũng cần chủ động, kịp thời nắm bắt các thông tin thị trường, quy định của TPP, từ đó xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp. Doanh nghiệp cần tham gia sâu hơn vào khâu bán hàng và phân phối trong chuỗi giá trị ngành. Đặc biệt, cần làm chủ thiết kế thời trang để xây dựng thương hiệu sản phẩm dệt may Việt Nam.
Đồng thời, cần chú trọng đào tạo nhân lực, cải thiện công nghệ, tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, nâng sức cạnh tranh trên thị trường.
Đặc biệt, các doanh nghiệp trong ngành cần nâng cao mối liên kết, sử dụng sản phẩm của nhau tạo thành chuỗi cung ứng hoàn thiện hơn.../.
Nghị quyết HĐQT số 8-2016 NQHĐQT về việc phát hành cổ phiếu để chi trả cổ tức và tăng vốn cổ phần từ nguồn VCSH
Nghị quyết HĐQT số 8-2016 NQHĐQT về việc phát hành cổ phiếu để chi trả cổ tức và tăng vốn cổ phần từ nguồn VCSH
Nghị quyết số 8-2016 HĐQT về việc phát hành cổ phiếu để chi trả cổ tức và tăng vốn cổ phần từ nguồn VCSH
Nghị quyết số 8-2016 HĐQT về việc phát hành cổ phiếu để chi trả cổ tức và tăng vốn cổ phần từ nguồn VCSH
Ngành dệt may: 5 kiến nghị đề xuất lên Thủ tướng Chính phủ
Là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của đất nước nhưng các doanh nghiệp (DN) dệt may vẫn còn nhiều lo lắng về nguồn cung nguyên liệu, chế độ tiền lương, cơ chế chính sách và sự cạnh tranh của các DN nước ngoài trong thời kỳ đất nước hội nhập sâu rộng.
Ngày 29/4 tới, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc sẽ tổ chức Hội nghị với doanh nghiệp năm 2016 với tên gọi: “Doanh nghiệp Việt Nam - Động lực phát triển kinh tế của đất nước”. Phóng viên Báo điện tử Chính phủ đã có cuộc trao đổi với ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam về những kiến nghị sẽ đề xuất lên Chính phủ.
Là người đứng đầu Hiệp hội Dệt may Việt Nam - một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của đất nước, ông muốn gửi đến Thủ tướng Chính phủ những kiến nghị gì?
Ông Vũ Đức Giang: Cộng đồng DN đang trông chờ Chính phủ trong nhiệm kỳ mới này sẽ tạo ra nền tảng, cơ chế, chính sách để thúc đẩy nền công nghiệp nói chung và ngành dệt may nói riêng. Để Thủ tướng Chính phủ có thêm nhiều thông tin nhằm đưa ra giải pháp cho ngành, tôi đề xuất Chính phủ cần có chính sách chiến lược dài hạn cho ngành dệt may Việt Nam trong thời gian tới.
Cụ thể, Chính phủ và các bộ ngành liên quan cần đánh giá lại quy hoạch phát triển ngành công nghiệp dệt may bởi quy hoạch đến năm 2020 đã lỗi thời.
Theo quy hoạch đến năm 2020, ngành dệt may Việt Nam dự kiến xuất khẩu 20-25 tỉ USD. Tuy nhiên, đến năm 2015 vừa qua, toàn ngành đã xuất khẩu được 27,5 tỉ USD. Vì vậy, chúng tôi rất mong Chính phủ đưa ra một chiến lược dài hạn hơn, cụ thể hơn, trước mắt là đến năm 2020, trung hạn 2020-2030 và dài hạn từ 2030-2040 để dệt may đi kịp với quá trình hội nhập của đất nước.
Để hiện thực hóa chiến lược dài hạn mà ông vừa đề xuất, ông có kiến nghị gì cụ thể hơn không?
Ông Vũ Đức Giang: Ngành dệt may có 5 kiến nghị muốn đề xuất lên Thủ tướng Chính phủ.
Đầu tiên, chúng tôi kiến nghị Chính phủ quy hoạch các khu công nghiệp (KCN) hoặc các khu kinh tế (KKT) trọng điểm của đất nước, trong đó có KCN dệt may. Trước đây, tỉnh Nam Định đã đề xuất lên Chính phủ về việc đưa KKT Ninh Cơ, trong đó có KCN dệt may Rạng Đông vào chiến lược phát triển vùng của đất nước.
Cùng với sự phát triển các KCN, KKT, Chính phủ cần xây dựng chiến lược dài hạn để kết nối hạ tầng giao thông, tạo sức hút cho các nhà đầu tư thứ cấp đầu tư vào các khu này, làm sao để vận chuyển hàng hóa trong thời gian ngắn nhất, chi phí thấp nhất và quan trọng là tạo nguồn lực thu hút nhân lực đến các KCN, hạn chế hiện tượng di dân từ các địa phương về KCN.
Bên cạnh đó, một tiêu chuẩn rất quan trọng của hàng dệt may xuất khẩu đang được các “buyer” (người mua, đầu mối buôn hàng) quan tâm là chất lượng nhà xưởng và nguồn gốc xơ, sợi, dệt, nhuộm hoàn tất. Để đạt được yếu tố này, Hiệp hội kiến nghị Chính phủ quan tâm đến việc đầu tư các nhà máy xử lý nước thải đạt chuẩn quốc tế, bảo đảm môi trường xanh sạch cho người dân và cũng là bảo đảm cho sản phẩm của ta xuất khẩu sang các nước được đón nhận.
Chúng tôi biết rằng việc này sẽ khó khăn bởi đầu tư vào hệ thống xử lý nước thải đạt chuẩn rất tốn kém, thời gian thu hồi vốn lâu nên chủ các KCN thường không làm được. Tuy nhiên, khi chúng ta có các hệ thống xử lý nước thải sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư, đặc biệt là DN FDI vào xây dựng các nhà máy sản xuất sơ, sợi và dệt, nhuộm hoàn tất.
Tiền lương cũng là vấn đề rất quan trọng trong thời gian tới. Tôi đồng ý rằng phải tăng lương tối thiểu để bảo đảm mức sống cho người lao động nhưng cần kéo giãn lộ trình, quan tâm hơn đến “sức khỏe” của DN.
Ngoài ra, Chính phủ cũng cần ổn định cơ chế chính sách từ thuế, hải quan, lao động, tiền lương, BHXH, BHYT minh bạch, rõ ràng để DN yên tâm kinh doanh, không phải lo suốt ngày “đối phó” với những chính sách thay đổi liên tục.
Mặc dù là ngành chủ lực xuất khẩu, nhưng dệt may Việt Nam mới chỉ làm được khâu may và phụ thuộc đến 90-95% vào nguồn nguyên liệu nước ngoài. Ông có đề xuất gì để cải thiện việc này trong thời gian tới không?
Ông Vũ Đức Giang: Tôi khẳng định dệt may Việt Nam đang thiếu hụt nguồn cung về sợi cao cấp và dệt nhuộm hoàn tất.
Trên thực tế, Việt Nam có 5 nhóm sản phẩm chủ lực xuất khẩu mà có thể ít người biết. Sản phẩm may mặc là nhóm chủ lực, kể cả các nhãn hiệu lớn nhất trên thế giới cũng đang được sản xuất tại Việt Nam. Ngoài ra, Việt Nam đã xuất khẩu sợi các loại (trên 3 tỉ USD/năm); vải các loại (1 tỉ USD/năm); phụ liệu như chỉ, bao bì, khóa…(500 triệu USD/năm); vải địa kỹ thuật cho làm đường, vải mành để làm lốp ô tô (400 triệu USD/năm)... Không thể nói là ta chỉ gia công mà không xuất khẩu nguyên liệu.
Thời gian tới, chúng tôi mong muốn Chính phủ thu hút DN FDI đầu tư vào các lĩnh vực mà ta đang thiếu là: Sợi cao cấp và dệt nhuộm hoàn tất nhưng họ phải đầu tư vào các KCN đã có hệ thống xử lý nước thải vì lượng nước thải ra từ 2 lĩnh vực này rất lớn, nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao nếu không xử lý tốt.
Đặc biệt, chúng tôi không khuyến khích các DN nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực may mà hãy để việc này cho các DN Việt Nam.
Ông có cho rằng thời gian tới DN FDI sẽ áp đảo DN Việt Nam và tận dụng được các hiệp định thương mại chúng ta vừa ký vì họ đã quen với việc “chơi” trên sân quốc tế?
Ông Vũ Đức Giang: Đây cũng là vấn đề chúng tôi muốn kiến nghị lên Thủ tướng Chính phủ. Chính phủ cần kiểm soát sự minh bạch giữa DN trong nước và DN FDI. Trên thực tế, có bao nhiêu DN FDI hạch toán lỗ ở Việt Nam và báo lãi ở nước ngoài? Trong khi DN trong nước buộc phải hoạt động có lãi và phải đóng 20% thuế thu nhập DN, đóng xong khoản thuế này mới được chia cổ tức và phân bổ còn DN FDI chỉ phải chi tiền lương theo Luật Doanh nghiệp, không phải đóng thuế thu nhập DN.
Nhà nước cần kiểm soát chặt việc này để bảo đảm việc thu ngân sách, nếu không làm chặt chẽ, không thu được là ta sẽ mất khoản này vì DN FDI đã sử dụng điện rẻ, đất rẻ, nhân công rẻ.
Mặt khác, Chính phủ có thể nghĩ đến việc công bố thông tin các DN đang “lách” thuế, kể cả DN Việt Nam lẫn DN nước ngoài để khi các “buyer” vào mua sẽ biết được rằng DN đó không có trách nhiệm với đất nước, vi phạm môi trường, không đóng thuế cho Chính phủ Việt Nam…
Xin cảm ơn ông!
Theo Trang Chung (thực hiện)Chinhphu.vn
22/4/2016
Trích từ: "http://cafef.vn/nganh-det-may-5-kien-nghi-de-xuat-len-thu-tuong-chinh-phu-20160422172626615.chn"
Là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của đất nước nhưng các doanh nghiệp (DN) dệt may vẫn còn nhiều lo lắng về nguồn cung nguyên liệu, chế độ tiền lương, cơ chế chính sách và sự cạnh tranh của các DN nước ngoài trong thời kỳ đất nước hội nhập sâu rộng.
Ngày 29/4 tới, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc sẽ tổ chức Hội nghị với doanh nghiệp năm 2016 với tên gọi: “Doanh nghiệp Việt Nam - Động lực phát triển kinh tế của đất nước”. Phóng viên Báo điện tử Chính phủ đã có cuộc trao đổi với ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam về những kiến nghị sẽ đề xuất lên Chính phủ.
Là người đứng đầu Hiệp hội Dệt may Việt Nam - một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của đất nước, ông muốn gửi đến Thủ tướng Chính phủ những kiến nghị gì?
Ông Vũ Đức Giang: Cộng đồng DN đang trông chờ Chính phủ trong nhiệm kỳ mới này sẽ tạo ra nền tảng, cơ chế, chính sách để thúc đẩy nền công nghiệp nói chung và ngành dệt may nói riêng. Để Thủ tướng Chính phủ có thêm nhiều thông tin nhằm đưa ra giải pháp cho ngành, tôi đề xuất Chính phủ cần có chính sách chiến lược dài hạn cho ngành dệt may Việt Nam trong thời gian tới.
Cụ thể, Chính phủ và các bộ ngành liên quan cần đánh giá lại quy hoạch phát triển ngành công nghiệp dệt may bởi quy hoạch đến năm 2020 đã lỗi thời.
Theo quy hoạch đến năm 2020, ngành dệt may Việt Nam dự kiến xuất khẩu 20-25 tỉ USD. Tuy nhiên, đến năm 2015 vừa qua, toàn ngành đã xuất khẩu được 27,5 tỉ USD. Vì vậy, chúng tôi rất mong Chính phủ đưa ra một chiến lược dài hạn hơn, cụ thể hơn, trước mắt là đến năm 2020, trung hạn 2020-2030 và dài hạn từ 2030-2040 để dệt may đi kịp với quá trình hội nhập của đất nước.
Để hiện thực hóa chiến lược dài hạn mà ông vừa đề xuất, ông có kiến nghị gì cụ thể hơn không?
Ông Vũ Đức Giang: Ngành dệt may có 5 kiến nghị muốn đề xuất lên Thủ tướng Chính phủ.
Đầu tiên, chúng tôi kiến nghị Chính phủ quy hoạch các khu công nghiệp (KCN) hoặc các khu kinh tế (KKT) trọng điểm của đất nước, trong đó có KCN dệt may. Trước đây, tỉnh Nam Định đã đề xuất lên Chính phủ về việc đưa KKT Ninh Cơ, trong đó có KCN dệt may Rạng Đông vào chiến lược phát triển vùng của đất nước.
Cùng với sự phát triển các KCN, KKT, Chính phủ cần xây dựng chiến lược dài hạn để kết nối hạ tầng giao thông, tạo sức hút cho các nhà đầu tư thứ cấp đầu tư vào các khu này, làm sao để vận chuyển hàng hóa trong thời gian ngắn nhất, chi phí thấp nhất và quan trọng là tạo nguồn lực thu hút nhân lực đến các KCN, hạn chế hiện tượng di dân từ các địa phương về KCN.
Bên cạnh đó, một tiêu chuẩn rất quan trọng của hàng dệt may xuất khẩu đang được các “buyer” (người mua, đầu mối buôn hàng) quan tâm là chất lượng nhà xưởng và nguồn gốc xơ, sợi, dệt, nhuộm hoàn tất. Để đạt được yếu tố này, Hiệp hội kiến nghị Chính phủ quan tâm đến việc đầu tư các nhà máy xử lý nước thải đạt chuẩn quốc tế, bảo đảm môi trường xanh sạch cho người dân và cũng là bảo đảm cho sản phẩm của ta xuất khẩu sang các nước được đón nhận.
Chúng tôi biết rằng việc này sẽ khó khăn bởi đầu tư vào hệ thống xử lý nước thải đạt chuẩn rất tốn kém, thời gian thu hồi vốn lâu nên chủ các KCN thường không làm được. Tuy nhiên, khi chúng ta có các hệ thống xử lý nước thải sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư, đặc biệt là DN FDI vào xây dựng các nhà máy sản xuất sơ, sợi và dệt, nhuộm hoàn tất.
Tiền lương cũng là vấn đề rất quan trọng trong thời gian tới. Tôi đồng ý rằng phải tăng lương tối thiểu để bảo đảm mức sống cho người lao động nhưng cần kéo giãn lộ trình, quan tâm hơn đến “sức khỏe” của DN.
Ngoài ra, Chính phủ cũng cần ổn định cơ chế chính sách từ thuế, hải quan, lao động, tiền lương, BHXH, BHYT minh bạch, rõ ràng để DN yên tâm kinh doanh, không phải lo suốt ngày “đối phó” với những chính sách thay đổi liên tục.
Mặc dù là ngành chủ lực xuất khẩu, nhưng dệt may Việt Nam mới chỉ làm được khâu may và phụ thuộc đến 90-95% vào nguồn nguyên liệu nước ngoài. Ông có đề xuất gì để cải thiện việc này trong thời gian tới không?
Ông Vũ Đức Giang: Tôi khẳng định dệt may Việt Nam đang thiếu hụt nguồn cung về sợi cao cấp và dệt nhuộm hoàn tất.
Trên thực tế, Việt Nam có 5 nhóm sản phẩm chủ lực xuất khẩu mà có thể ít người biết. Sản phẩm may mặc là nhóm chủ lực, kể cả các nhãn hiệu lớn nhất trên thế giới cũng đang được sản xuất tại Việt Nam. Ngoài ra, Việt Nam đã xuất khẩu sợi các loại (trên 3 tỉ USD/năm); vải các loại (1 tỉ USD/năm); phụ liệu như chỉ, bao bì, khóa…(500 triệu USD/năm); vải địa kỹ thuật cho làm đường, vải mành để làm lốp ô tô (400 triệu USD/năm)... Không thể nói là ta chỉ gia công mà không xuất khẩu nguyên liệu.
Thời gian tới, chúng tôi mong muốn Chính phủ thu hút DN FDI đầu tư vào các lĩnh vực mà ta đang thiếu là: Sợi cao cấp và dệt nhuộm hoàn tất nhưng họ phải đầu tư vào các KCN đã có hệ thống xử lý nước thải vì lượng nước thải ra từ 2 lĩnh vực này rất lớn, nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao nếu không xử lý tốt.
Đặc biệt, chúng tôi không khuyến khích các DN nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực may mà hãy để việc này cho các DN Việt Nam.
Ông có cho rằng thời gian tới DN FDI sẽ áp đảo DN Việt Nam và tận dụng được các hiệp định thương mại chúng ta vừa ký vì họ đã quen với việc “chơi” trên sân quốc tế?
Ông Vũ Đức Giang: Đây cũng là vấn đề chúng tôi muốn kiến nghị lên Thủ tướng Chính phủ. Chính phủ cần kiểm soát sự minh bạch giữa DN trong nước và DN FDI. Trên thực tế, có bao nhiêu DN FDI hạch toán lỗ ở Việt Nam và báo lãi ở nước ngoài? Trong khi DN trong nước buộc phải hoạt động có lãi và phải đóng 20% thuế thu nhập DN, đóng xong khoản thuế này mới được chia cổ tức và phân bổ còn DN FDI chỉ phải chi tiền lương theo Luật Doanh nghiệp, không phải đóng thuế thu nhập DN.
Nhà nước cần kiểm soát chặt việc này để bảo đảm việc thu ngân sách, nếu không làm chặt chẽ, không thu được là ta sẽ mất khoản này vì DN FDI đã sử dụng điện rẻ, đất rẻ, nhân công rẻ.
Mặt khác, Chính phủ có thể nghĩ đến việc công bố thông tin các DN đang “lách” thuế, kể cả DN Việt Nam lẫn DN nước ngoài để khi các “buyer” vào mua sẽ biết được rằng DN đó không có trách nhiệm với đất nước, vi phạm môi trường, không đóng thuế cho Chính phủ Việt Nam…
Xin cảm ơn ông!
Chinhphu.vn
22/4/2016
Việt Nam và tiềm năng trở thành “công xưởng dệt may mới” của thế giới
(Baohatinh.vn) - Tờ Nikkei Asian Review ngày 19/4 nhận định, Việt Nam đang nổi lên như một trung tâm sản xuất hàng dệt may đầy tiềm năng mới của thế giới khi các “ông lớn” ngành này trên khắp toàn cầu đang “rục rịch” mở rộng hoạt động sản xuất của mình tại đây.
Công nhân đang vận hành máy móc tại nhà máy của công ty Avery Dennison RBIS ở Long An. (Ảnh: Nikkei Asian Review)
Từ Công ty Avery Dennison RBIS thuộc Tập đoàn Avery Dennison của Mỹ đến Tập đoàn dệt may Hàn Quốc - Panko - đều đang cho xây dựng các nhà máy mới ở Việt Nam nhằm đón đầu những cơ hội đến từ Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) mà Việt Nam là một trong 12 thành viên.
Ngoài lợi thế về nhân công giá rẻ, các loại thuế quan dự kiến sẽ cắt giảm theo các điều khoản đã được ký kết trong TPP cũng là thỏi nam châm hút các doanh nghiệp dệt may đến với Việt Nam. Theo ước tính, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam giai đoạn 2015 - 2020 sẽ tăng gấp đôi, lên mức 55 tỷ USD.
Chào đón các doanh nghiệp quốc tế đến với sân chơi mới
Nhà máy sản xuất các mặt hàng tem nhãn mác, bao bì, phụ liệu trang trí cho ngành dệt may, da giày mới của Avery Dennison RBIS ở khu công nghiệp Long Hậu, tỉnh Long An hiện đang sử dụng công nghệ in ấn tiên tiến nhất hiện nay. Đây là nhà máy chuyên cung cấp nhãn mác cho các thương hiệu lớn thế giới như Nike, Adidas.
Nhà máy này đã đi vào hoạt động từ tháng 1/2016, với năng lực sản xuất khoảng 10.000 nhãn mác/giờ. Nhãn mác do Avery sản xuất được in các thông tin về giá, chất liệu làm nên sản phẩm. Các loại nhãn mác này sẽ được Avery được chuyển đến các xưởng chuyên sản xuất trang phục thể thao ở những vùng lân cận. Hiện năng lực sản xuất của nhà máy mới ở Long An đang gấp đôi so với nhà máy được Avery xây dựng trước đó ở Bình Dương.
Ông Rishi Pardal, Phó Chủ tịch và Tổng Giám đốc Avery Dennison RBIS Khu vực Bắc Á, nhận định, Việt Nam sẽ thay thế Trung Quốc để trở thành trung tâm chính cho hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường phương Tây và Nhật Bản.
Tập đoàn Panko của Hàn Quốc cũng đã cho khởi công xây dựng một nhà máy mới đặt tại tỉnh Quảng Nam với tổng vốn đầu tư lên đến 100 triệu USD. Panko hiện đang phải chạy đua để đáp ứng với ngày càng nhiều các đơn đặt hàng đến từ các thương hiệu đồ may mặc lớn trên thế giới, trong đó có cả thương hiệu thời trang Uniqlo nổi tiếng của Nhật Bản.
Ông Choi Jae Ho, Giám đốc Công ty TNHH Panko Vina (Việt Nam), cho biết, doanh thu của Panko đã tăng đến 30% trong năm ngoái, triển vọng năm nay, mức tăng cũng sẽ được mở rộng với tỷ lệ tương tự.
Trung Quốc vẫn đang giữ vị trí thống lĩnh trong ngành kinh doanh đồ may mặc châu Á, với tổng kim ngạch xuất khẩu ngành này lên đến 30 nghìn tỷ yên (275 tỷ USD) vượt xa kim ngạch xuất khẩu dệt may hàng năm của quốc gia đứng thứ hai là Ấn Độ với 5 nghìn tỷ yên (45,6 tỷ USD). Tuy nhiên, chi phí lao động tăng gấp đôi trong vòng 5 năm qua đang đe dọa vị thế của Trung Quốc trong khu vực.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Trung Quốc đã giảm xuống trong năm ngoái, lần đầu tiên trong vòng 6 năm qua, báo hiệu các nhà sản xuất đang tìm kiếm các quốc gia khác có chi phí nhân công thấp hơn để thay thế.
Việt Nam rõ ràng có tiềm năng để trở thành mối đe dọa nghiêm trọng với vị thế của Trung Quốc trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may. Ngoài lợi thế nhân công giá rẻ (thấp hơn Trung Quốc gần 60%), các điều khoản trong Hiệp định TPP dự kiến có hiệu lực từ năm 2018, sẽ thúc đẩy hơn nữa khả năng cạnh tranh của Việt Nam.
Lấy ví dụ đơn giản như với Mỹ, các điều khoản của TPP sẽ cho phép loại bỏ ngay lập tức trung bình từ 20% đến 70% thuế quan đánh vào hàng xuất khẩu Việt Nam vào thị trường này. Bên cạnh đó, con đường để Việt Nam trở thành một “cường quốc xuất khẩu mới” còn có thể được “chắp cánh” thêm bằng Hiệp định Thương mại tự do với Liên minh châu Âu (EU) - hiệp định hiện đã đạt được nhiều bước tiến quan trọng.
Công ty chuyên cung cấp thuốc nhuộm và hoá chất trong ngành dệt may, Huntsman Textile Effects thuộc Tập đoàn Huntsman có trụ sở tại Mỹ, cũng đang tìm cách để tận dụng các cơ hội kinh doanh mới ở Việt Nam sau các hiệp định thương mại. Trước đây, khi nhận được đơn hàng, Huntsman Textile Effects thường phải mất từ 2 - 3 tuần để vận chuyển thuốc nhuộm vải, sợi từ nhà kho ở Thái Lan đến tay khách hàng Việt Nam. Cho đến năm ngoái, Huntsman đã giải quyết vấn đề trên bằng cách cho mở cửa một kho ngoại quan tại khu công nghiệp Long Bình, tỉnh Đồng Nai, từ đó giảm thời gian giao hàng xuống chỉ còn 4 ngày làm việc.
Trong bối cảnh Trung Quốc vẫn chưa gia nhập TPP, các doanh nghiệp dệt may Đại lục cũng đang tìm cách mở rộng phạm vi hoạt động tại Việt Nam. Tập đoàn Texhong Textile Group, một trong những nhà sản xuất dệt may lớn của Trung Quốc, đã chi 600 triệu nhân dân tệ (92,6 triệu USD) để xây dựng một nhà máy sản xuất có diện tích khoảng 570.000 km2 đặt tại Quảng Ninh.
Hiện tại, Texhong cùng một đối tác Hồng Kông khác chuyên về sản xuất hàng dệt kim đang lên kế hoạch để xây dựng một khu phức hợp sản xuất, bán hàng tại Việt Nam, bắt đầu từ các sản phẩm sợi.
Ông Hong Tian Zhu, Chủ tịch Tập Đoàn Texhong cho biết công ty sẽ tìm cách để trở thành một trong những doanh nghiệp hàng đầu về lĩnh vực này tại Việt Nam. Ông cũng khẳng định Việt Nam là quốc gia được hưởng lợi nhiều nhất từ TPP.
Công ty Pou Chen của Đài Loan hiện là nhà sản xuất gia công da giày lớn nhất trên thế giới. Công ty này chuyên cung cấp hàng hóa cho 2 hãng nổi tiếng là Nike và Adidas cùng nhiều thương hiệu lớn khác. Pou Chen hiện cũng đang tích cực mở rộng hoạt động tại Việt Nam. Tính đến cuối năm 2015, 42% tổng khối lượng sản phẩm của Pou Chen được sản xuất tại Việt Nam, vượt xa mức 25% sản xuất ở Trung Quốc. Đối thủ cạnh tranh của Pou Chen là Feng Tay cũng có đến 51% tổng sản lượng trong quý I/2016 được sản xuất tại Việt Nam. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ngành dệt may Việt Nam giai đoạn 2014 - 2015 đạt 5,7 tỷ USD.
Khó khăn, thách thức
Ngoài những lợi thế kể trên, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức nhất định trên con đường trở thành “người khổng lồ” ngành dệt may toàn cầu.
Mức lương tối thiểu ở Việt Nam đang tăng ở mức 2 con số cùng với ngành công nghiệp hóa dầu kém phát triển đang hạn chế năng lực sản xuất của Việt Nam. Nếu muốn hiện thực hóa tham vọng của mình, Việt Nam cần phải nhanh chóng cơ cấu lại ngành công nghiệp khi hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vẫn đang duy trì được khả năng cạnh tranh về giá.
Phương Đặng
(Theo Nikkei Asian Review)
21/4/22016
Trích từ: "http://baohatinh.vn/kinh-te/viet-nam-va-tiem-nang-tro-thanh-cong-xuong-det-may-moi-cua-the-gioi/112616.htm"
(Baohatinh.vn) - Tờ Nikkei Asian Review ngày 19/4 nhận định, Việt Nam đang nổi lên như một trung tâm sản xuất hàng dệt may đầy tiềm năng mới của thế giới khi các “ông lớn” ngành này trên khắp toàn cầu đang “rục rịch” mở rộng hoạt động sản xuất của mình tại đây.
Công nhân đang vận hành máy móc tại nhà máy của công ty Avery Dennison RBIS ở Long An. (Ảnh: Nikkei Asian Review)
Từ Công ty Avery Dennison RBIS thuộc Tập đoàn Avery Dennison của Mỹ đến Tập đoàn dệt may Hàn Quốc - Panko - đều đang cho xây dựng các nhà máy mới ở Việt Nam nhằm đón đầu những cơ hội đến từ Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) mà Việt Nam là một trong 12 thành viên.
Ngoài lợi thế về nhân công giá rẻ, các loại thuế quan dự kiến sẽ cắt giảm theo các điều khoản đã được ký kết trong TPP cũng là thỏi nam châm hút các doanh nghiệp dệt may đến với Việt Nam. Theo ước tính, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam giai đoạn 2015 - 2020 sẽ tăng gấp đôi, lên mức 55 tỷ USD.
Chào đón các doanh nghiệp quốc tế đến với sân chơi mới
Nhà máy sản xuất các mặt hàng tem nhãn mác, bao bì, phụ liệu trang trí cho ngành dệt may, da giày mới của Avery Dennison RBIS ở khu công nghiệp Long Hậu, tỉnh Long An hiện đang sử dụng công nghệ in ấn tiên tiến nhất hiện nay. Đây là nhà máy chuyên cung cấp nhãn mác cho các thương hiệu lớn thế giới như Nike, Adidas.
Nhà máy này đã đi vào hoạt động từ tháng 1/2016, với năng lực sản xuất khoảng 10.000 nhãn mác/giờ. Nhãn mác do Avery sản xuất được in các thông tin về giá, chất liệu làm nên sản phẩm. Các loại nhãn mác này sẽ được Avery được chuyển đến các xưởng chuyên sản xuất trang phục thể thao ở những vùng lân cận. Hiện năng lực sản xuất của nhà máy mới ở Long An đang gấp đôi so với nhà máy được Avery xây dựng trước đó ở Bình Dương.
Ông Rishi Pardal, Phó Chủ tịch và Tổng Giám đốc Avery Dennison RBIS Khu vực Bắc Á, nhận định, Việt Nam sẽ thay thế Trung Quốc để trở thành trung tâm chính cho hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường phương Tây và Nhật Bản.
Tập đoàn Panko của Hàn Quốc cũng đã cho khởi công xây dựng một nhà máy mới đặt tại tỉnh Quảng Nam với tổng vốn đầu tư lên đến 100 triệu USD. Panko hiện đang phải chạy đua để đáp ứng với ngày càng nhiều các đơn đặt hàng đến từ các thương hiệu đồ may mặc lớn trên thế giới, trong đó có cả thương hiệu thời trang Uniqlo nổi tiếng của Nhật Bản.
Ông Choi Jae Ho, Giám đốc Công ty TNHH Panko Vina (Việt Nam), cho biết, doanh thu của Panko đã tăng đến 30% trong năm ngoái, triển vọng năm nay, mức tăng cũng sẽ được mở rộng với tỷ lệ tương tự.
Trung Quốc vẫn đang giữ vị trí thống lĩnh trong ngành kinh doanh đồ may mặc châu Á, với tổng kim ngạch xuất khẩu ngành này lên đến 30 nghìn tỷ yên (275 tỷ USD) vượt xa kim ngạch xuất khẩu dệt may hàng năm của quốc gia đứng thứ hai là Ấn Độ với 5 nghìn tỷ yên (45,6 tỷ USD). Tuy nhiên, chi phí lao động tăng gấp đôi trong vòng 5 năm qua đang đe dọa vị thế của Trung Quốc trong khu vực.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Trung Quốc đã giảm xuống trong năm ngoái, lần đầu tiên trong vòng 6 năm qua, báo hiệu các nhà sản xuất đang tìm kiếm các quốc gia khác có chi phí nhân công thấp hơn để thay thế.
Việt Nam rõ ràng có tiềm năng để trở thành mối đe dọa nghiêm trọng với vị thế của Trung Quốc trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may. Ngoài lợi thế nhân công giá rẻ (thấp hơn Trung Quốc gần 60%), các điều khoản trong Hiệp định TPP dự kiến có hiệu lực từ năm 2018, sẽ thúc đẩy hơn nữa khả năng cạnh tranh của Việt Nam.
Lấy ví dụ đơn giản như với Mỹ, các điều khoản của TPP sẽ cho phép loại bỏ ngay lập tức trung bình từ 20% đến 70% thuế quan đánh vào hàng xuất khẩu Việt Nam vào thị trường này. Bên cạnh đó, con đường để Việt Nam trở thành một “cường quốc xuất khẩu mới” còn có thể được “chắp cánh” thêm bằng Hiệp định Thương mại tự do với Liên minh châu Âu (EU) - hiệp định hiện đã đạt được nhiều bước tiến quan trọng.
Công ty chuyên cung cấp thuốc nhuộm và hoá chất trong ngành dệt may, Huntsman Textile Effects thuộc Tập đoàn Huntsman có trụ sở tại Mỹ, cũng đang tìm cách để tận dụng các cơ hội kinh doanh mới ở Việt Nam sau các hiệp định thương mại. Trước đây, khi nhận được đơn hàng, Huntsman Textile Effects thường phải mất từ 2 - 3 tuần để vận chuyển thuốc nhuộm vải, sợi từ nhà kho ở Thái Lan đến tay khách hàng Việt Nam. Cho đến năm ngoái, Huntsman đã giải quyết vấn đề trên bằng cách cho mở cửa một kho ngoại quan tại khu công nghiệp Long Bình, tỉnh Đồng Nai, từ đó giảm thời gian giao hàng xuống chỉ còn 4 ngày làm việc.
Trong bối cảnh Trung Quốc vẫn chưa gia nhập TPP, các doanh nghiệp dệt may Đại lục cũng đang tìm cách mở rộng phạm vi hoạt động tại Việt Nam. Tập đoàn Texhong Textile Group, một trong những nhà sản xuất dệt may lớn của Trung Quốc, đã chi 600 triệu nhân dân tệ (92,6 triệu USD) để xây dựng một nhà máy sản xuất có diện tích khoảng 570.000 km2 đặt tại Quảng Ninh.
Hiện tại, Texhong cùng một đối tác Hồng Kông khác chuyên về sản xuất hàng dệt kim đang lên kế hoạch để xây dựng một khu phức hợp sản xuất, bán hàng tại Việt Nam, bắt đầu từ các sản phẩm sợi.
Ông Hong Tian Zhu, Chủ tịch Tập Đoàn Texhong cho biết công ty sẽ tìm cách để trở thành một trong những doanh nghiệp hàng đầu về lĩnh vực này tại Việt Nam. Ông cũng khẳng định Việt Nam là quốc gia được hưởng lợi nhiều nhất từ TPP.
Công ty Pou Chen của Đài Loan hiện là nhà sản xuất gia công da giày lớn nhất trên thế giới. Công ty này chuyên cung cấp hàng hóa cho 2 hãng nổi tiếng là Nike và Adidas cùng nhiều thương hiệu lớn khác. Pou Chen hiện cũng đang tích cực mở rộng hoạt động tại Việt Nam. Tính đến cuối năm 2015, 42% tổng khối lượng sản phẩm của Pou Chen được sản xuất tại Việt Nam, vượt xa mức 25% sản xuất ở Trung Quốc. Đối thủ cạnh tranh của Pou Chen là Feng Tay cũng có đến 51% tổng sản lượng trong quý I/2016 được sản xuất tại Việt Nam. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ngành dệt may Việt Nam giai đoạn 2014 - 2015 đạt 5,7 tỷ USD.
Khó khăn, thách thức
Ngoài những lợi thế kể trên, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức nhất định trên con đường trở thành “người khổng lồ” ngành dệt may toàn cầu.
Mức lương tối thiểu ở Việt Nam đang tăng ở mức 2 con số cùng với ngành công nghiệp hóa dầu kém phát triển đang hạn chế năng lực sản xuất của Việt Nam. Nếu muốn hiện thực hóa tham vọng của mình, Việt Nam cần phải nhanh chóng cơ cấu lại ngành công nghiệp khi hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vẫn đang duy trì được khả năng cạnh tranh về giá.
Phương Đặng
(Theo Nikkei Asian Review)
21/4/22016
Trích từ: "http://baohatinh.vn/kinh-te/viet-nam-va-tiem-nang-tro-thanh-cong-xuong-det-may-moi-cua-the-gioi/112616.htm"
(Baohatinh.vn) - Tờ Nikkei Asian Review ngày 19/4 nhận định, Việt Nam đang nổi lên như một trung tâm sản xuất hàng dệt may đầy tiềm năng mới của thế giới khi các “ông lớn” ngành này trên khắp toàn cầu đang “rục rịch” mở rộng hoạt động sản xuất của mình tại đây.
Công nhân đang vận hành máy móc tại nhà máy của công ty Avery Dennison RBIS ở Long An. (Ảnh: Nikkei Asian Review)
Từ Công ty Avery Dennison RBIS thuộc Tập đoàn Avery Dennison của Mỹ đến Tập đoàn dệt may Hàn Quốc - Panko - đều đang cho xây dựng các nhà máy mới ở Việt Nam nhằm đón đầu những cơ hội đến từ Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) mà Việt Nam là một trong 12 thành viên.
Ngoài lợi thế về nhân công giá rẻ, các loại thuế quan dự kiến sẽ cắt giảm theo các điều khoản đã được ký kết trong TPP cũng là thỏi nam châm hút các doanh nghiệp dệt may đến với Việt Nam. Theo ước tính, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam giai đoạn 2015 - 2020 sẽ tăng gấp đôi, lên mức 55 tỷ USD.
Chào đón các doanh nghiệp quốc tế đến với sân chơi mới
Nhà máy sản xuất các mặt hàng tem nhãn mác, bao bì, phụ liệu trang trí cho ngành dệt may, da giày mới của Avery Dennison RBIS ở khu công nghiệp Long Hậu, tỉnh Long An hiện đang sử dụng công nghệ in ấn tiên tiến nhất hiện nay. Đây là nhà máy chuyên cung cấp nhãn mác cho các thương hiệu lớn thế giới như Nike, Adidas.
Nhà máy này đã đi vào hoạt động từ tháng 1/2016, với năng lực sản xuất khoảng 10.000 nhãn mác/giờ. Nhãn mác do Avery sản xuất được in các thông tin về giá, chất liệu làm nên sản phẩm. Các loại nhãn mác này sẽ được Avery được chuyển đến các xưởng chuyên sản xuất trang phục thể thao ở những vùng lân cận. Hiện năng lực sản xuất của nhà máy mới ở Long An đang gấp đôi so với nhà máy được Avery xây dựng trước đó ở Bình Dương.
Ông Rishi Pardal, Phó Chủ tịch và Tổng Giám đốc Avery Dennison RBIS Khu vực Bắc Á, nhận định, Việt Nam sẽ thay thế Trung Quốc để trở thành trung tâm chính cho hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường phương Tây và Nhật Bản.
Tập đoàn Panko của Hàn Quốc cũng đã cho khởi công xây dựng một nhà máy mới đặt tại tỉnh Quảng Nam với tổng vốn đầu tư lên đến 100 triệu USD. Panko hiện đang phải chạy đua để đáp ứng với ngày càng nhiều các đơn đặt hàng đến từ các thương hiệu đồ may mặc lớn trên thế giới, trong đó có cả thương hiệu thời trang Uniqlo nổi tiếng của Nhật Bản.
Ông Choi Jae Ho, Giám đốc Công ty TNHH Panko Vina (Việt Nam), cho biết, doanh thu của Panko đã tăng đến 30% trong năm ngoái, triển vọng năm nay, mức tăng cũng sẽ được mở rộng với tỷ lệ tương tự.
Trung Quốc vẫn đang giữ vị trí thống lĩnh trong ngành kinh doanh đồ may mặc châu Á, với tổng kim ngạch xuất khẩu ngành này lên đến 30 nghìn tỷ yên (275 tỷ USD) vượt xa kim ngạch xuất khẩu dệt may hàng năm của quốc gia đứng thứ hai là Ấn Độ với 5 nghìn tỷ yên (45,6 tỷ USD). Tuy nhiên, chi phí lao động tăng gấp đôi trong vòng 5 năm qua đang đe dọa vị thế của Trung Quốc trong khu vực.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Trung Quốc đã giảm xuống trong năm ngoái, lần đầu tiên trong vòng 6 năm qua, báo hiệu các nhà sản xuất đang tìm kiếm các quốc gia khác có chi phí nhân công thấp hơn để thay thế.
Việt Nam rõ ràng có tiềm năng để trở thành mối đe dọa nghiêm trọng với vị thế của Trung Quốc trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may. Ngoài lợi thế nhân công giá rẻ (thấp hơn Trung Quốc gần 60%), các điều khoản trong Hiệp định TPP dự kiến có hiệu lực từ năm 2018, sẽ thúc đẩy hơn nữa khả năng cạnh tranh của Việt Nam.
Lấy ví dụ đơn giản như với Mỹ, các điều khoản của TPP sẽ cho phép loại bỏ ngay lập tức trung bình từ 20% đến 70% thuế quan đánh vào hàng xuất khẩu Việt Nam vào thị trường này. Bên cạnh đó, con đường để Việt Nam trở thành một “cường quốc xuất khẩu mới” còn có thể được “chắp cánh” thêm bằng Hiệp định Thương mại tự do với Liên minh châu Âu (EU) - hiệp định hiện đã đạt được nhiều bước tiến quan trọng.
Công ty chuyên cung cấp thuốc nhuộm và hoá chất trong ngành dệt may, Huntsman Textile Effects thuộc Tập đoàn Huntsman có trụ sở tại Mỹ, cũng đang tìm cách để tận dụng các cơ hội kinh doanh mới ở Việt Nam sau các hiệp định thương mại. Trước đây, khi nhận được đơn hàng, Huntsman Textile Effects thường phải mất từ 2 - 3 tuần để vận chuyển thuốc nhuộm vải, sợi từ nhà kho ở Thái Lan đến tay khách hàng Việt Nam. Cho đến năm ngoái, Huntsman đã giải quyết vấn đề trên bằng cách cho mở cửa một kho ngoại quan tại khu công nghiệp Long Bình, tỉnh Đồng Nai, từ đó giảm thời gian giao hàng xuống chỉ còn 4 ngày làm việc.
Trong bối cảnh Trung Quốc vẫn chưa gia nhập TPP, các doanh nghiệp dệt may Đại lục cũng đang tìm cách mở rộng phạm vi hoạt động tại Việt Nam. Tập đoàn Texhong Textile Group, một trong những nhà sản xuất dệt may lớn của Trung Quốc, đã chi 600 triệu nhân dân tệ (92,6 triệu USD) để xây dựng một nhà máy sản xuất có diện tích khoảng 570.000 km2 đặt tại Quảng Ninh.
Hiện tại, Texhong cùng một đối tác Hồng Kông khác chuyên về sản xuất hàng dệt kim đang lên kế hoạch để xây dựng một khu phức hợp sản xuất, bán hàng tại Việt Nam, bắt đầu từ các sản phẩm sợi.
Ông Hong Tian Zhu, Chủ tịch Tập Đoàn Texhong cho biết công ty sẽ tìm cách để trở thành một trong những doanh nghiệp hàng đầu về lĩnh vực này tại Việt Nam. Ông cũng khẳng định Việt Nam là quốc gia được hưởng lợi nhiều nhất từ TPP.
Công ty Pou Chen của Đài Loan hiện là nhà sản xuất gia công da giày lớn nhất trên thế giới. Công ty này chuyên cung cấp hàng hóa cho 2 hãng nổi tiếng là Nike và Adidas cùng nhiều thương hiệu lớn khác. Pou Chen hiện cũng đang tích cực mở rộng hoạt động tại Việt Nam. Tính đến cuối năm 2015, 42% tổng khối lượng sản phẩm của Pou Chen được sản xuất tại Việt Nam, vượt xa mức 25% sản xuất ở Trung Quốc. Đối thủ cạnh tranh của Pou Chen là Feng Tay cũng có đến 51% tổng sản lượng trong quý I/2016 được sản xuất tại Việt Nam. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ngành dệt may Việt Nam giai đoạn 2014 - 2015 đạt 5,7 tỷ USD.
Khó khăn, thách thức
Ngoài những lợi thế kể trên, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức nhất định trên con đường trở thành “người khổng lồ” ngành dệt may toàn cầu.
Mức lương tối thiểu ở Việt Nam đang tăng ở mức 2 con số cùng với ngành công nghiệp hóa dầu kém phát triển đang hạn chế năng lực sản xuất của Việt Nam. Nếu muốn hiện thực hóa tham vọng của mình, Việt Nam cần phải nhanh chóng cơ cấu lại ngành công nghiệp khi hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vẫn đang duy trì được khả năng cạnh tranh về giá.
Phương Đặng
(Theo Nikkei Asian Review)
21/4/22016
Trích từ: "http://baohatinh.vn/kinh-te/viet-nam-va-tiem-nang-tro-thanh-cong-xuong-det-may-moi-cua-the-gioi/112616.htm"
(Baohatinh.vn) - Tờ Nikkei Asian Review ngày 19/4 nhận định, Việt Nam đang nổi lên như một trung tâm sản xuất hàng dệt may đầy tiềm năng mới của thế giới khi các “ông lớn” ngành này trên khắp toàn cầu đang “rục rịch” mở rộng hoạt động sản xuất của mình tại đây.
Công nhân đang vận hành máy móc tại nhà máy của công ty Avery Dennison RBIS ở Long An. (Ảnh: Nikkei Asian Review) Từ Công ty Avery Dennison RBIS thuộc Tập đoàn Avery Dennison của Mỹ đến Tập đoàn dệt may Hàn Quốc - Panko - đều đang cho xây dựng các nhà máy mới ở Việt Nam nhằm đón đầu những cơ hội đến từ Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) mà Việt Nam là một trong 12 thành viên. Ngoài lợi thế về nhân công giá rẻ, các loại thuế quan dự kiến sẽ cắt giảm theo các điều khoản đã được ký kết trong TPP cũng là thỏi nam châm hút các doanh nghiệp dệt may đến với Việt Nam. Theo ước tính, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam giai đoạn 2015 - 2020 sẽ tăng gấp đôi, lên mức 55 tỷ USD. Chào đón các doanh nghiệp quốc tế đến với sân chơi mới Nhà máy sản xuất các mặt hàng tem nhãn mác, bao bì, phụ liệu trang trí cho ngành dệt may, da giày mới của Avery Dennison RBIS ở khu công nghiệp Long Hậu, tỉnh Long An hiện đang sử dụng công nghệ in ấn tiên tiến nhất hiện nay. Đây là nhà máy chuyên cung cấp nhãn mác cho các thương hiệu lớn thế giới như Nike, Adidas. Nhà máy này đã đi vào hoạt động từ tháng 1/2016, với năng lực sản xuất khoảng 10.000 nhãn mác/giờ. Nhãn mác do Avery sản xuất được in các thông tin về giá, chất liệu làm nên sản phẩm. Các loại nhãn mác này sẽ được Avery được chuyển đến các xưởng chuyên sản xuất trang phục thể thao ở những vùng lân cận. Hiện năng lực sản xuất của nhà máy mới ở Long An đang gấp đôi so với nhà máy được Avery xây dựng trước đó ở Bình Dương. Ông Rishi Pardal, Phó Chủ tịch và Tổng Giám đốc Avery Dennison RBIS Khu vực Bắc Á, nhận định, Việt Nam sẽ thay thế Trung Quốc để trở thành trung tâm chính cho hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường phương Tây và Nhật Bản. Tập đoàn Panko của Hàn Quốc cũng đã cho khởi công xây dựng một nhà máy mới đặt tại tỉnh Quảng Nam với tổng vốn đầu tư lên đến 100 triệu USD. Panko hiện đang phải chạy đua để đáp ứng với ngày càng nhiều các đơn đặt hàng đến từ các thương hiệu đồ may mặc lớn trên thế giới, trong đó có cả thương hiệu thời trang Uniqlo nổi tiếng của Nhật Bản. Ông Choi Jae Ho, Giám đốc Công ty TNHH Panko Vina (Việt Nam), cho biết, doanh thu của Panko đã tăng đến 30% trong năm ngoái, triển vọng năm nay, mức tăng cũng sẽ được mở rộng với tỷ lệ tương tự. Trung Quốc vẫn đang giữ vị trí thống lĩnh trong ngành kinh doanh đồ may mặc châu Á, với tổng kim ngạch xuất khẩu ngành này lên đến 30 nghìn tỷ yên (275 tỷ USD) vượt xa kim ngạch xuất khẩu dệt may hàng năm của quốc gia đứng thứ hai là Ấn Độ với 5 nghìn tỷ yên (45,6 tỷ USD). Tuy nhiên, chi phí lao động tăng gấp đôi trong vòng 5 năm qua đang đe dọa vị thế của Trung Quốc trong khu vực. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Trung Quốc đã giảm xuống trong năm ngoái, lần đầu tiên trong vòng 6 năm qua, báo hiệu các nhà sản xuất đang tìm kiếm các quốc gia khác có chi phí nhân công thấp hơn để thay thế. Việt Nam rõ ràng có tiềm năng để trở thành mối đe dọa nghiêm trọng với vị thế của Trung Quốc trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may. Ngoài lợi thế nhân công giá rẻ (thấp hơn Trung Quốc gần 60%), các điều khoản trong Hiệp định TPP dự kiến có hiệu lực từ năm 2018, sẽ thúc đẩy hơn nữa khả năng cạnh tranh của Việt Nam. Lấy ví dụ đơn giản như với Mỹ, các điều khoản của TPP sẽ cho phép loại bỏ ngay lập tức trung bình từ 20% đến 70% thuế quan đánh vào hàng xuất khẩu Việt Nam vào thị trường này. Bên cạnh đó, con đường để Việt Nam trở thành một “cường quốc xuất khẩu mới” còn có thể được “chắp cánh” thêm bằng Hiệp định Thương mại tự do với Liên minh châu Âu (EU) - hiệp định hiện đã đạt được nhiều bước tiến quan trọng. Công ty chuyên cung cấp thuốc nhuộm và hoá chất trong ngành dệt may, Huntsman Textile Effects thuộc Tập đoàn Huntsman có trụ sở tại Mỹ, cũng đang tìm cách để tận dụng các cơ hội kinh doanh mới ở Việt Nam sau các hiệp định thương mại. Trước đây, khi nhận được đơn hàng, Huntsman Textile Effects thường phải mất từ 2 - 3 tuần để vận chuyển thuốc nhuộm vải, sợi từ nhà kho ở Thái Lan đến tay khách hàng Việt Nam. Cho đến năm ngoái, Huntsman đã giải quyết vấn đề trên bằng cách cho mở cửa một kho ngoại quan tại khu công nghiệp Long Bình, tỉnh Đồng Nai, từ đó giảm thời gian giao hàng xuống chỉ còn 4 ngày làm việc. Trong bối cảnh Trung Quốc vẫn chưa gia nhập TPP, các doanh nghiệp dệt may Đại lục cũng đang tìm cách mở rộng phạm vi hoạt động tại Việt Nam. Tập đoàn Texhong Textile Group, một trong những nhà sản xuất dệt may lớn của Trung Quốc, đã chi 600 triệu nhân dân tệ (92,6 triệu USD) để xây dựng một nhà máy sản xuất có diện tích khoảng 570.000 km2 đặt tại Quảng Ninh. Hiện tại, Texhong cùng một đối tác Hồng Kông khác chuyên về sản xuất hàng dệt kim đang lên kế hoạch để xây dựng một khu phức hợp sản xuất, bán hàng tại Việt Nam, bắt đầu từ các sản phẩm sợi. Ông Hong Tian Zhu, Chủ tịch Tập Đoàn Texhong cho biết công ty sẽ tìm cách để trở thành một trong những doanh nghiệp hàng đầu về lĩnh vực này tại Việt Nam. Ông cũng khẳng định Việt Nam là quốc gia được hưởng lợi nhiều nhất từ TPP. Công ty Pou Chen của Đài Loan hiện là nhà sản xuất gia công da giày lớn nhất trên thế giới. Công ty này chuyên cung cấp hàng hóa cho 2 hãng nổi tiếng là Nike và Adidas cùng nhiều thương hiệu lớn khác. Pou Chen hiện cũng đang tích cực mở rộng hoạt động tại Việt Nam. Tính đến cuối năm 2015, 42% tổng khối lượng sản phẩm của Pou Chen được sản xuất tại Việt Nam, vượt xa mức 25% sản xuất ở Trung Quốc. Đối thủ cạnh tranh của Pou Chen là Feng Tay cũng có đến 51% tổng sản lượng trong quý I/2016 được sản xuất tại Việt Nam. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ngành dệt may Việt Nam giai đoạn 2014 - 2015 đạt 5,7 tỷ USD. Khó khăn, thách thức Ngoài những lợi thế kể trên, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức nhất định trên con đường trở thành “người khổng lồ” ngành dệt may toàn cầu. Mức lương tối thiểu ở Việt Nam đang tăng ở mức 2 con số cùng với ngành công nghiệp hóa dầu kém phát triển đang hạn chế năng lực sản xuất của Việt Nam. Nếu muốn hiện thực hóa tham vọng của mình, Việt Nam cần phải nhanh chóng cơ cấu lại ngành công nghiệp khi hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vẫn đang duy trì được khả năng cạnh tranh về giá. Phương Đặng (Theo Nikkei Asian Review) 21/4/22016 Trích từ: "http://baohatinh.vn/kinh-te/viet-nam-va-tiem-nang-tro-thanh-cong-xuong-det-may-moi-cua-the-gioi/112616.htm" |
Báo cáo tài chính quý 01 năm 2016
Báo cáo tài chính quý 01 năm 2016
Báo cáo tài chính quý 01 năm 2016
Báo cáo tài chính quý 01 năm 2016
Báo cáo tài chính quý 01 năm 2016
Báo cáo tài chính quý 01 năm 2016
Xuất khẩu dệt may đạt hơn 5 tỷ đôla trong quý I
(DNVN) - Trong quý I/2016, xuất khẩu nhóm hàng dệt may của Việt Nam đạt 5,12 tỷ USD, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm 2015.
Theo số liệu mới nhất của Tổng cục Hải quan, trong quý I/2016, xuất khẩu nhóm hàng này của Việt Nam đạt 5,12 tỷ USD, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm 2015. Trong đó, xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn hoàn toàn trong nước đạt hơn 2 tỷ USD, tăng 6,4%; xuất khẩu của doanh nghiệp FDI đạt 3,08 tỷ USD, tăng 6,7%.
Xét về thị trường, trong 3 tháng qua, hàng dệt may của Việt Nam xuất sang thị trường Hoa Kỳ đạt 2,53 tỷ USD, tăng 7,4%; sang EU đạt 692 triệu USD, tăng 7,3%; sang Nhật Bản đạt 640 triệu USD, tăng 1,1% và sang Hàn Quốc đạt 531 triệu USD, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm 2015.
Cũng theo thống kê của Hải quan Việt Nam, về nhóm hàng giày dép các loại, trong tháng 3/2016 xuất khẩu giày dép các loại đạt hơn 918 triệu USD tăng 43,1% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu trong quý I/2016 của nhóm hàng này đạt mức 2,79 tỷ USD, tăng 9,6% so với cùng kỳ năm 2015.
Trong đó, thị trường Hoa Kỳ và EU là 2 thị trường chính nhập khẩu nhóm hàng này của Việt Nam với kim ngạch và tốc độ tăng lần lượt là 946 triệu USD (tăng 11,6%) và 899 triệu USD (tăng 8,6%). Tính chung trị giá giầy dép xuất khẩu sang 2 thị trường chính đạt 1,84 tỷ USD, chiếm 66% tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước.
Ở chiều ngược lại, về kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng nguyên, phụ liệu dệt may, da, giày (gồm bông, xơ, sợi dệt, vải các loại và nguyên phụ liệu dệt may, da giày khác), trong tháng 3/2016, nhập khẩu nhóm hàng này đạt 1,59 tỷ USD, tăng 56% so với tháng trước.
Tính đến hết tháng 3/2016, kim ngạch nhập khẩu của nhóm hàng nguyên phụ liệu dệt, may, gia dày đạt hơn 4 tỷ USD, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm 2015.
Trong 3 tháng đầu năm 2016, Trung Quốc vẫn là đối tác chính cung cấp nhóm mặt hàng cho Việt Nam với 1,62 tỷ USD, tăng 6,9%; tiếp theo là các thị trường Hàn Quốc: 595 triệu USD, giảm 0,7%; Đài Loan: 521 triệu USD, giảm 2,9%...so với quý I/2015.
Hòa Lộc
Doanh Nghiệp Việt Nam
20/4/2016
Trích từ: "http://doanhnghiepvn.vn/xuat-khau-det-may-dat-hon-5-ty-dola-trong-quy-i-d68078.html"
(DNVN) - Trong quý I/2016, xuất khẩu nhóm hàng dệt may của Việt Nam đạt 5,12 tỷ USD, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm 2015.
Theo số liệu mới nhất của Tổng cục Hải quan, trong quý I/2016, xuất khẩu nhóm hàng này của Việt Nam đạt 5,12 tỷ USD, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm 2015. Trong đó, xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn hoàn toàn trong nước đạt hơn 2 tỷ USD, tăng 6,4%; xuất khẩu của doanh nghiệp FDI đạt 3,08 tỷ USD, tăng 6,7%.
Xét về thị trường, trong 3 tháng qua, hàng dệt may của Việt Nam xuất sang thị trường Hoa Kỳ đạt 2,53 tỷ USD, tăng 7,4%; sang EU đạt 692 triệu USD, tăng 7,3%; sang Nhật Bản đạt 640 triệu USD, tăng 1,1% và sang Hàn Quốc đạt 531 triệu USD, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm 2015.
Cũng theo thống kê của Hải quan Việt Nam, về nhóm hàng giày dép các loại, trong tháng 3/2016 xuất khẩu giày dép các loại đạt hơn 918 triệu USD tăng 43,1% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu trong quý I/2016 của nhóm hàng này đạt mức 2,79 tỷ USD, tăng 9,6% so với cùng kỳ năm 2015.
Trong đó, thị trường Hoa Kỳ và EU là 2 thị trường chính nhập khẩu nhóm hàng này của Việt Nam với kim ngạch và tốc độ tăng lần lượt là 946 triệu USD (tăng 11,6%) và 899 triệu USD (tăng 8,6%). Tính chung trị giá giầy dép xuất khẩu sang 2 thị trường chính đạt 1,84 tỷ USD, chiếm 66% tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước.
Ở chiều ngược lại, về kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng nguyên, phụ liệu dệt may, da, giày (gồm bông, xơ, sợi dệt, vải các loại và nguyên phụ liệu dệt may, da giày khác), trong tháng 3/2016, nhập khẩu nhóm hàng này đạt 1,59 tỷ USD, tăng 56% so với tháng trước.
Tính đến hết tháng 3/2016, kim ngạch nhập khẩu của nhóm hàng nguyên phụ liệu dệt, may, gia dày đạt hơn 4 tỷ USD, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm 2015.
Trong 3 tháng đầu năm 2016, Trung Quốc vẫn là đối tác chính cung cấp nhóm mặt hàng cho Việt Nam với 1,62 tỷ USD, tăng 6,9%; tiếp theo là các thị trường Hàn Quốc: 595 triệu USD, giảm 0,7%; Đài Loan: 521 triệu USD, giảm 2,9%...so với quý I/2015.
Hòa Lộc
Doanh Nghiệp Việt Nam
20/4/2016
Trích từ: "http://doanhnghiepvn.vn/xuat-khau-det-may-dat-hon-5-ty-dola-trong-quy-i-d68078.html"
(DNVN) - Trong quý I/2016, xuất khẩu nhóm hàng dệt may của Việt Nam đạt 5,12 tỷ USD, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm 2015.
Trong đó, xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn hoàn toàn trong nước đạt hơn 2 tỷ USD, tăng 6,4%; xuất khẩu của doanh nghiệp FDI đạt 3,08 tỷ USD, tăng 6,7%.
Xét về thị trường, trong 3 tháng qua, hàng dệt may của Việt Nam xuất sang thị trường Hoa Kỳ đạt 2,53 tỷ USD, tăng 7,4%; sang EU đạt 692 triệu USD, tăng 7,3%; sang Nhật Bản đạt 640 triệu USD, tăng 1,1% và sang Hàn Quốc đạt 531 triệu USD, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm 2015.
Cũng theo thống kê của Hải quan Việt Nam, về nhóm hàng giày dép các loại, trong tháng 3/2016 xuất khẩu giày dép các loại đạt hơn 918 triệu USD tăng 43,1% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu trong quý I/2016 của nhóm hàng này đạt mức 2,79 tỷ USD, tăng 9,6% so với cùng kỳ năm 2015.
Trong đó, thị trường Hoa Kỳ và EU là 2 thị trường chính nhập khẩu nhóm hàng này của Việt Nam với kim ngạch và tốc độ tăng lần lượt là 946 triệu USD (tăng 11,6%) và 899 triệu USD (tăng 8,6%). Tính chung trị giá giầy dép xuất khẩu sang 2 thị trường chính đạt 1,84 tỷ USD, chiếm 66% tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước.
Ở chiều ngược lại, về kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng nguyên, phụ liệu dệt may, da, giày (gồm bông, xơ, sợi dệt, vải các loại và nguyên phụ liệu dệt may, da giày khác), trong tháng 3/2016, nhập khẩu nhóm hàng này đạt 1,59 tỷ USD, tăng 56% so với tháng trước.
Tính đến hết tháng 3/2016, kim ngạch nhập khẩu của nhóm hàng nguyên phụ liệu dệt, may, gia dày đạt hơn 4 tỷ USD, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm 2015.
Trong 3 tháng đầu năm 2016, Trung Quốc vẫn là đối tác chính cung cấp nhóm mặt hàng cho Việt Nam với 1,62 tỷ USD, tăng 6,9%; tiếp theo là các thị trường Hàn Quốc: 595 triệu USD, giảm 0,7%; Đài Loan: 521 triệu USD, giảm 2,9%...so với quý I/2015.
Hòa Lộc
Doanh Nghiệp Việt Nam
20/4/2016
Trích từ: "http://doanhnghiepvn.vn/xuat-khau-det-may-dat-hon-5-ty-dola-trong-quy-i-d68078.html"