Tăng trưởng xuất khẩu dệt may trong năm 2016 của Việt Nam sẽ được cải thiện đáng kể nhờ lực cầu hồi phục và hội nhập FTA.
Các thị trường chủ lực của dệt may là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, cùng với đó, việc các Hiệp định Thương mại tự do có hiệu lực từ năm 2016 (FTA Việt Nam – EAEU, FTA Việt Nam – Hàn Quốc) cũng sẽ là động lực thúc đẩy.
Xét nhóm doanh nghiệp dệt may niêm yết trên toàn cầu theo thống kê của Bloomberg có mức vốn hóa dao động trong khoảng +/-5% so với các cổ phiếu dệt may đang niêm yết là TCM, TNG và STK, các cổ phiếu này vẫn đang ở mức định giá hấp dẫn khi dệt may Việt Nam đang bắt đầu được hưởng lợi từ các Hiệp định thương mại.
CTCP Đầu tư và Thương mại (TNG) hiện sở hữu 10 chi nhánh may, mỗi năm sản xuất khoảng 12 triệu sản phẩm áo khoác và 9 triệu sản phẩm quần Chino, chủ yếu xuất khẩu sang Hoa Kỳ, EU, Canada và Mexico (chiếm 83% tổng kim ngạch xuất khẩu của TNG). Tháng 02/2015, nhà máy Đại Từ với công suất thiết kế 35 chuyền may đi vào sản xuất giúp TNG tăng công suất thêm 1 triệu sản phẩm/năm. Tháng 08/2015, TNG cũng nâng thêm một dây chuyền sản xuất bông tấm, nâng công suất thiết kế gấp 3 hiện tại, chủ yếu phục vụ sản xuất của doanh nghiệp (80%), còn lại bán bông ra thị trường.
Tuy nhiên, rủi ro lớn nhất TNG đang phải đối mặt là sự mất cân đối về vốn. Tại thời điểm quý 3/2015, TNG đang có khoản nợ ngắn hạn lớn, 937 tỷ đồng, trong đó 736.6 tỷ là vay ngắn hạn. Tỷ lệ thanh toán ngắn hạn (tài sản ngắn hạn/nợ ngân hàng) của công ty lại ở mức thấp, chỉ bằng 0,77.
Đối với CTCP Dệt may – Đầu tư – Thương mại Thành Công (TCM), một DN được nhiều nhà đầu tư chú ý trong suốt năm 2015 vừa qua với kỳ vọng từ TPP, hiện TCM sở hữu chuỗi sản xuất khép kín từ sợi, vải, và may. Chuỗi sản xuất này đảm bảo đáp ứng quy tắc xuất xứ trong các hiệp định thương mại.
Thị trường xuất khẩu chính của TCM là Mỹ (30%), Nhật Bản (35%) và Hàn Quốc (20%). Trong 2015, TCM đưa vào hoạt động nhà máy may số 1 tại Vĩnh Long, tăng công suất thiết kế của nhà máy may lên 21,1 triệu sản phẩm/năm.
TCM dự kiến sẽ hoạt động nhà máy may 2 (6,1 triệu sp/năm), nhà máy đan, nhuộm mở rộng trong trường hợp các nhà máy hiện tại không đáp ứng đủ đơn hàng.
Như vậy, tiềm năng tăng trưởng của TCM còn khá lớn, đủ khả năng đáp ứng nhu cầu nhất là trong giai đoạn đơn hàng gia tăng khi các FTA lần lượt có hiệu lực. Hiện tại, doanh thu thuần của TCM có 40% đến từ sợi, 50% từ may và 10% từ vải, và có xu hướng đổi tăng dần tỷ trọng doanh thu từ vải và may lên, giảm tỷ trọng sợi có biên lợi nhuận gộp thấp hơn.
Doanh nghiệp dệt may mới lên sàn trong năm 2015 vừa qua là CTCP Sợi Thế Kỷ (STK). Các sản phẩm của STK là sợi POY, sợi DTY và sợi FDY. Trong đó sợi DTY chiếm 92% doanh thu thuần.
STK là một trong hai công ty lớn nhất sản xuất sợi DTY chất lượng cao và là một trong năm công ty sản xuất sợi DTY ở Việt Nam. 70% sản phẩm được xuất khẩu sang các thị trường Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Thái Lan,… còn lại được tiêu thụ trong nước.
Trong tháng 9/2015, STK đưa nhà máy Tràng Bảng 3 vào hoạt động, nâng tổng công suất thiết kế từ 32,000 tấn DTY/năm và 5.000 tấn FDY/năm lên 52.000 tấn DTY và FDY/năm.
Dự kiến quý 4/2016 hoặc đầu năm 2017 STK sẽ hoạt động nhà máy Tràng Bảng 4, với công suất thiết kế 3.000 tấn DTY, 6.000 tấn POY và 4.000 tấn FDY để phục vụ sản xuất, giúp công suất thiết kế tăng 62% so với thời điểm chưa hoạt động Tràng Bảng 3 và 4.
Vốn được coi là một trong những ngành được hưởng lợi nhiều nhất khi TPP đi vào hiệu lực nhưng trước mặt, ngành dệt may sẽ phải đối diện với những thách thức không hề nhỏ.
Kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may năm 2015 vẫn giữ vững vị trí thứ hai trong tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Tốc độ tăng trưởng trung bình trong 5 năm trở lại đây của toàn ngành vẫn giữ ở mức cao là 16,4% CAGR.
Tính đến giữa tháng 12 năm 2015, giá trị xuất khẩu hàng dệt, may đã đạt 21,6 tỷ USD (tăng 9% so với cùng kỳ năm ngoái , thấp hơn so với năm cùng kỳ 2014 là +16%). Nếu tính cả hàng xơ, sợi dệt và nguyên phụ kiện các loại, kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đạt mức 25,3 tỷ USD (tăng 9% so với cùng kỳ năm 2014 là tăng 17%).
Theo chia sẻ của ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may năm 2015 dự kiến đạt 27,5 tỷ USD, tăng 11,3% so với năm 2014 nhưng vẫn thấp hơn so với kế hoạch đề ra trước đó là 28 tỷ USD.
Mặc dù kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vẫn tăng trưởng tại các thị trường truyền thống như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc nhưng đà tăng đã có phần chững lại do giá đầu vào giảm mạnh khiến giá đầu ra duy trì ở mức thấp và tỷ giá giữa USD/VNĐ liên tục tăng trong năm qua.
Ngoài thị trường Hoa Kỳ vẫn giữ vững được tốc độ tăng trưởng với hai con số, các thị trường còn lại đều không còn tăng trưởng mạnh mẽ như trong năm 2014. Cụ thể, trong 11 tháng qua, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ đạt 9,88 tỷ USD (tăng 11,7%, thấp hơn cùng kỳ 2014 là tăng 11,85%); sang EU đạt 3,09 tỷ USD (tăng 3,5%, thấp hơn cùng kỳ 2014 là tăng 26%); sang Nhật Bản đạt 2,53 tỷ USD (tăng 6,2%, thấp hơn cùng kỳ 2014 là tăng 13,82%) và sang Hàn Quốc đạt 1,98 tỷ USD (tăng 1,3%, thấp hơn cùng kỳ 2014 là 36%).
Đáng lưu ý, trong 11 tháng đầu năm 2015, xuất khẩu dệt may của Việt Nam tại các thị trường trong khuôn khổ Hiệp định TPP tăng 10,8% so với cùng kỳ năm trước và chiếm tới 55% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may.
Trong thời điểm kinh tế còn nhiều khó khăn như hiện nay, ngành dệt may đang nhận được khá nhiều sự quan tâm và đánh giá cao về triển vọng phát triển do dệt may là một trong số ít ngành vẫn giữ được tăng trưởng dương và ổn định. Trong năm 2016, ngành đặt mục tiêu xuất khẩu ở mức 31 tỷ USD.
Bên cạnh đó, dệt mang đang đứng trước rất nhiều cơ hội lớn để thúc đẩy xuất khẩu thông qua các hiệp định thương mại tự do TPP – EU – Hàn Quốc – Liên minh Thuế quan (Nga, Belarus, Kazakhstan).
Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia tại Công ty chứng khoán Vietcombank (VCBS), bức tranh triển vọng của ngành dệt may trong năm 2016 cũng tồn tại không ít khó khăn và thách thức. Chính sách lương thay đổi, áp lực tỷ giá giữa các quốc gia trong vùng và các ràng buộc kèm theo khi gia nhập FTA khiến một số lợi thế cạnh tranh của ngành cũng sẽ bị ảnh hưởng.
Nếu như trước đây, nhân công rẻ là một trong những lợi thế cạnh tranh của dệt may Việt Nam thì giờ đây, lợi thế này đang dần mất đi khi lương cơ sở và lương tối thiểu đều được Chính phủ điều chỉnh tăng từ năm 2016.
Cụ thể, lương cơ sở tăng từ 1.150.000 đồng/tháng lên 1.210.000 đồng/tháng (tăng khoảng 5%) sẽ kéo theo chi phí phải trả BHXH của người sử dụng lao động. Tương tự, lương tối thiểu mới sẽ ở mức 106,67 – 155,56 USD/tháng, cao hơn mức lương tối thiểu tại một số nước xuất khẩu dệt may đối thủ như Bangladesh (67 USD/tháng), Myannmar (82,96 USD/tháng), Mông Cổ (96,34 USD/tháng), Pakistan (93,5-112,2 USD/tháng), Campuchia (124,21 USD/tháng)…
Bên cạnh đó, áp lực tỷ giá khiến giá hàng xuất khẩu kém cạnh tranh, xu hướng phá giá đồng nội tệ so với đồng USD của các nước xuất khẩu dệt may đang diễn ra mạnh mẽ.
Mặc dù Chính phủ đã ứng biến linh hoạt hơn trong việc đưa ra các giải pháp về tỷ giá nhưng những động thái này vẫn chưa mang tính quyết liệt so với các nước đối thủ. Do vậy,VCBS cho rằng xu hướng dịch chuyển đơn hàng từ Trung Quốc sang Việt Nam cũng sẽ diễn biến theo chiều hướng giảm trong năm 2016.
Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng được điều kiện để hưởng lợi về thuế từ các hiệp định FTA, đặc biệt là điều kiện về nguồn gốc xuất xứ. Hiện nay, 70-80% nguyên vật liệu dệt may hiện nay vẫn phụ thuộc vào nguồn cung từ Trung Quốc và các nước ngoài khu vực FTA.
Sản phẩm sợi và vải sản xuất nội địa chưa đa dạng, chất lượng chưa cao nên chỉ sử dụng được 20-25% sản lượng cho ngành may xuất khẩu. Trong khi đó, hai hiệp định FTA lớn nhất của Việt Nam là TPP và Việt Nam – EU đều có những quy định khá khắt khe đối với hàng hoá được hưởng ưu đãi thuế.
Cụ thể, TPP yêu cầu nguồn gốc xuất xứ “từ sợi trở đi” còn FTA Việt Nam – EU yêu cầu “từ vải trở đi” đối với các sản phẩm dệt may xuất nhập khẩu trong khu vực hiệu lực của thương mai tự do. Do vậy, mặc dù thị trường TPP và EU rất tiềm năng nhưng trong ngắn hạn, phần lớn các sản phẩm dệt may hiện nay của Việt Nam sẽ khó được hưởng lợi được về thuế xuất nhập khẩu.
“Với những diễn biến vĩ mô không mấy tích cực, năm 2016 được dự đoán sẽ là một năm khó khăn đối với ngành dệt may nói riêng và với các ngành xuất khẩu của Việt Nam nói chung. Do vậy, chúng tôi cho rằng mục tiêu xuất khẩu dệt may đạt 31 tỷ USD sẽ khó thực hiện”, VCBS cho biết.
Về dài hạn, câu hỏi đặt ra cho ngành dệt may là liệu việc hưởng lợi từ thuế xuất nhập khẩu với các thị trường tiêu thụ lớn có bù đắp lại được rủi ro tỷ giá và rủi ro chi phí sản xuất ngày càng tăng hay không?
Và ai sẽ là người cuối cùng được hưởng lợi từ FTA, các doanh nghiệp Việt Nam hay FDI khi các doanh nghiệp dệt may có vốn FDI, đặc biệt là vốn từ Trung Quốc sang Việt Nam đang liên tục đầu tư xây dựng nhà máy với công nghệ sản xuất tiên tiến hơn, quy mô lớn hơn và giàu kinh nghiệm sản xuất hơn.
Để trả lời được câu hỏi này, sẽ cần thêm thời gian quan sát và đánh giá riêng đối với từng doanh nghiệp trong ngành.
Theo tài liệu công bố ban đầu của Bộ Công Thương dẫn nhận định của Ban Kinh tế trung ương, Việt Nam được đánh giá sẽ đạt được các lợi ích lớn và lợi ích “cốt lõi” khi tham gia vào TPP. Trong đó, các ngành hưởng lợi như: dệt may, da giày, công nghệ cao…
Ngày 4/2/2016, Bộ trưởng phụ trách thương mại của 12 nước tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) gồm Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Hoa Kỳ đã tham dự Lễ ký kết để xác thực lời văn Hiệp định TPP tại Auckland, New Zealand.
Vào 5h sáng nay (4/2), được sự ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Công Thương Vũ Huy Hoàng đã thay mặt Chính phủ Việt Nam ký xác thực lời văn Hiệp định TPP và 35 thỏa thuận song phương trong các lĩnh vực liên quan đến dịch vụ tài chính, dệt may, nông nghiệp, sở hữu trí tuệ… mà Việt Nam đã thống nhất với một số nước TPP. Các thỏa thuận song phương này sẽ có hiệu lực cùng thời điểm với Hiệp định TPP.
Bộ Công Thương cho biết, sau khi ký chính thức, các nước sẽ tiến hành thủ tục phê chuẩn Hiệp định theo quy định của pháp luật nước mình. Hiệp định sẽ có hiệu lực sau 60 ngày kể từ ngày nhận được thông báo sau cùng bằng văn bản về việc các Bên đã hoàn thành thủ tục pháp lý nội bộ.
Như vậy, sau hơn 5 năm đàm phán với hơn 30 phiên làm việc ở cấp kỹ thuật và hơn 10 cuộc đàm phán ở cấp Bộ trưởng, các nước TPP đã chính thức kết thúc đàm phán Hiệp định vào ngày 5/10/2015 tại Hội nghị Bộ trưởng tại Atlanta, Hoa Kỳ. Hiệp định bao gồm 30 chương, đề cập không chỉ các lĩnh vực truyền thống như hàng hóa, dịch vụ, đầu tư mà còn cả các vấn đề mới như thương mại điện tử, tạo thuận lợi cho dây chuyền cung ứng, doanh nghiệp nhà nước…
Bộ Công Thương đã công bố toàn văn Hiệp định TPP bằng 3 thứ tiếng gồm tiếng Anh, Pháp và Tây Ban Nha đã được các nước ký xác thực lời văn và có giá trị pháp lý như nhau cùng các thư trao đổi song phương giữa Việt Nam với một số nước TPP.
Bên cạnh đó, nhằm mục đích đáp ứng kịp thời và đầy đủ hơn nhu cầu thông tin của các cơ quan hoạch định chính sách, cộng đồng doanh nghiệp và người dân, Bộ Công Thương cũng công bố bản dịch tiếng Việt do các Bộ, ngành có liên quan thực hiện.
Việt Nam sẽ đạt lợi ích to lớn và “cốt lõi”
Theo tài liệu công bố ban đầu của Bộ Công Thương dẫn nhận định của Ban Kinh tế trung ương, Việt Nam được đánh giá sẽ đạt được các lợi ích lớn và lợi ích “cốt lõi” khi tham gia vào TPP.
Đối với ngành dệt may, thuế nhập khẩu vào Hoa Kỳ giảm 50% ngay năm đầu tiên TPP có hiệu lực (tương đương 1 tỷ USD) và tăng lên trong những năm tiếp theo, kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 30%. Về quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi”, có một số linh hoạt như nhập nguyên liệu từ nước thứ ba để sản xuất hàng dệt may xuất khẩu vào Hoa Kỳ vẫn được hưởng ưu đãi theo TPP.
Đối với ngành da giày, dự kiến giảm khoảng 60% số thuế nhập khẩu phải nộp cho Hoa Kỳ, kim ngạch xuất khẩu được đánh giá dự kiến tăng khoảng 25% so với tốc độ tăng 15% trước khi tham gia TPP. Kim ngạch xuất khẩu nông sản, thuỷ sản và sản phẩm chế biến có khả năng tăng lên.
Ban Kinh tế trung ương khẳng định, tham gia TPP là cơ hội để Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng của nhiều tập đoàn trên thế giới, nhất là chuỗi cung ứng hàng điện tử, công nghệ cao (do các nước TPP chiếm tới 40% GDP và 30% thương mại toàn cầu); cơ cấu lại thị trường xuất nhập khẩu theo hướng cân bằng hơn, không quá dựa vào thị trường Trung Quốc và Đông Á.
Hoa Kỳ và các nước dành linh hoạt cho Việt Nam tiếp cận tiêu chuẩn TPP có thời gian chuyển đổi, lộ trình tối đa cho các nghĩa vụ khó nhất lên đến 20 năm. Do đó, Việt Nam có thể tận dụng các ưu đãi, mở cửa thị trường của các nước để phát triển, thu hút mạnh đầu tư và công nghệ tiên tiến, chủ yếu từ Hoa Kỳ, Nhật Bản; các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia đấu thầu mua sắm Chính phủ các nước, có cơ hội tiếp cận thị trường dịch vụ và đầu tư các nước của TPP.
Bên cạnh đó, tham gia TPP sẽ thúc đẩy Việt Nam hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, đổi mới mô hình tăng trưởng,… đồng thời, khẳng định vai trò, vị thế chính trị và ngoại giao của Việt Nam trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Lo doanh nghiệp trong nước mất thị phần
Tuy nhiên, theo đánh giá của Ban Kinh tế Trung ương, tham gia TPP cũng sẽ đi kèm với thách thức và rủi ro không nhỏ với Việt Nam.
“Trong điều kiện là nước thu nhập trung bình, trình độ nền kinh tế phát triển ở mức thấp nhất trong 12 nước thành viên TPP, hơn 90% doanh nghiệp là nhỏ và vừa, chất lượng nguồn nhân lực thấp, thể chế kinh tế và thực thi pháp luật còn nhiều bất cập; năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, sản phẩm và doanh nghiệp còn yếu kém, thực tiễn 10 năm hội nhập quốc tế gần đây chưa đạt được mục tiêu”, báo cáo nhận định.
Bên cạnh đó, mở cửa thị trường là nội dung chủ yếu của TPP, tuy Việt Nam được chấp nhận mở cửa theo lộ trình với nhiều lĩnh vực, mặt hàng nhưng các doanh nghiệp trong nước sẽ mất thị phần thị trường hàng hoá, dịch vụ và đầu tư, mua sắm chính phủ, phải chia sẻ lợi ích cho các doanh nghiệp nước ngoài, làm giảm việc làm, khả năng doanh nghiệp bị phá sản ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế và nảy sinh các hệ luỵ về chính trị, văn hoá…
Các doanh nghiệp nước ngoài trong lĩnh vực dệt may và da giày được hưởng lợi hơn các doanh nghiệp trong nước khi Việt Nam tham gia TPP, vì có thế mạnh về vốn, công nghệ và tham gia chuỗi cung ứng trên phạm vi toàn cầu, các doanh nghiệp FDI đang mở rộng sản xuất trên địa bàn cả nước để đón đầu Việt Nam tham gia TPP.
Các doanh nghiệp trong nước, dù số lượng khá lớn nhưng vốn nhỏ, công nghệ trình độ thấp hơn, hầu hết doanh nghiệp chưa có khả năng tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu, cho nên sản xuất công đoạn may, làm gia công cho doanh nghiệp FDI.
Hàng nông sản của các nước có điều kiện thâm nhập vào Việt Nam, làm cho nông sản trong nước bị cạnh tranh, ép giá, mất thị phần, làm giảm thu nhập của nông dân và doanh nghiệp. Ngoại trừ mặt hàng hồ tiêu, hạt điều, các mặt hàng như thịt gà, thịt lợn… khả năng cạnh tranh của Việt Nam còn thấp.
Việc kí kết Hiệp định TPP là mốc quan trọng hứa hẹn hiệp định TPP sẽ đi vào thực thi đúng thời gian. (Ảnh minh họa: AFP)
12 Bộ trưởng và Trưởng đoàn đàm phán của 12 nước thành viên lần lượt ký kết hiệp định với sự chứng kiến của Thủ tướng New Zealand.
Cách đây ít phút (theo giờ Việt Nam), Hiệp định thương mại Đối tác xuyên Thái Bình Dương (còn gọi là TPP) được chính thức được ký kết tại thành phố Auckland, New Zealand. 12 Bộ trưởng và Trưởng đoàn đàm phán của 12 nước thành viên lần lượt ký kết hiệp định với sự chứng kiến của Thủ tướng New Zealand - John Key. Bộ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam Vũ Huy Hoàng dẫn đầu đoàn đàm phán Chính phủ Việt Nam tham gia lễ ký kết lúc.
Theo Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng, trưởng đoàn đàm phán Hiệp định TPP của Việt Nam, 12 nước thành viên tham gia Hiệp định TPP đã giữ được tiến độ sẽ ký kết hiệp định chính thức vào ngày 4/2/2016 như đã cam kết trước đó. Đây là mốc quan trọng hứa hẹn hiệp định TPP sẽ đi vào thực thi đúng thời gian.
Trong 3 tháng vừa qua, kể từ khi kết thúc đàm phán, bên cạnh các cam kết chung đạt được trong TPP, Việt Nam đã đạt được thêm một số thoả thuận song phương với một số nước thành viên TPP mà các thoả thuận này có tác động quan trọng với một số lĩnh vực Việt Nam đang đàm phán.
Cụ thể, Việt Nam đạt được Thoả thuận song phương về dệt may với Mỹ, cam kết của một số nước để tiến tới xem xét công nhận cơ chế kinh tế thị trường của Việt Nam, Thoả thuận của Việt Nam với Australia về việc tăng thêm thời gian lao động cho các thể nhân có điều kiện làm việc tại Australia. Các thoả thuận này có tác động tích cực cho việc thực thi hiệp định TPP của Việt Nam.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng nhấn mạnh: “Đối với Việt Nam, việc ký kết hiệp định TPP có thể coi là cột mốc lớn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, bởi đây là lần đầu tiên chúng ta đàm phán và ký một hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, tiêu chuẩn cao như TPP. Điều này cho thấy trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta có bước trưởng thành lớn kể từ khi tham gia ASEAN năm 1995. Hiệp định TPP sẽ đem lại cơ hội lớn cho kinh tế đất nước, góp phần thức hiện thắng lợi đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước chúng ta trong quá trình hội nhập quốc tế, trong đó hội nhập kinh tế là trọng tâm.”
Nhiều nghiên cứu của các tổ chức trong và ngoài nước cho rằng, Việt Nam sẽ là nước được hưởng lợi nhiều nhất khi thực thi TPP, nhất là trong lĩnh vực thương mại hàng hoá, thu hút dịch vụ và đầu tư. Cơ hội lớn nhất liên quan đến lĩnh vực xuất khẩu. Dự báo, TPP sẽ giúp xuất khẩu Việt Nam tăng thêm được 68 tỷ USD vào năm 2025 nhờ cơ hội mở rộng thị phần với các thị trường lớn như Mỹ, Canada Nhật Bản… khi thuế nhập khẩu được hạ về mức 0%.
Tuy nhiên, khi thực thi TPP, một số lĩnh vực, trong đó có chăn nuôi có thể gặp khó khăn. Do đó, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ trong đàm phán TPP, Bộ Công Thương và các bộ ngành liên quan đã thỏa thuận với các nước trong TPP một lộ trình phù hợp để khi kết thúc lộ trình đó, Việt Nam mới phải thực hiện hoàn toàn các cam kết, còn trong lộ trình đó, Việt Nam sẽ có các bước điều chỉnh dần dần và phù hợp.
Theo Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng, ngay sau khi ký kết xong Hiệp định, Việt Nam cần triển khai ngay các giải pháp phù hợp để giải quyết được các khó khăn, biến lợi thế tiềm năng trở thành hiện thực.
Ông Hoàng Vệ Dũng - Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam cho biết, ngành sợi và dệt đang có xu hướng sụt giảm đơn hàng do Trung Quốc ngừng mua.
Phát biểu tại cuộc họp giao ban Bộ Công thương sáng 1/2, ông Hoàng Vệ Dũng - Phó Tổng GĐ Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) cho biết, tăng trưởng của toàn Tập đoàn tháng 1/2016 đạt trên 5%, nhiều đơn vị tăng cao từ 10-15% do đơn hàng nhiều. Tuy nhiên, từ tháng 3 có hiện tượng đơn hàng sụt giảm.
Theo ông Dũng, sự suy giảm rơi vào ngành sợi và dệt. Cùng kỳ năm 2015, ngành sợi tăng trưởng khá tốt nhưng năm nay, suy giảm do Trung Quốc – thị trường lớn nhất của Việt Nam ngừng mua.
“Xuất khẩu sang các thị trường khác vẫn duy trì nhưng không tăng trưởng mạnh như thị trường Trung Quốc” – ông Dũng nói.
Do vậy, ông Dũng cho biết, trong năm nay Tập đoàn sẽ đẩy mạnh xúc tiến thị trường sang các thị trường mới để tăng lượng hàng hóa.
Bên cạnh đó, Tập đoàn cũng đẩy mạnh các dự án đầu tư như nhà máy may ở Kiên Giang, Bạc Liêu, dự án dệt Quế Sơn (Quảng Nam), nhà máy dệt Nam Định… để đón đầu TPP và các hiệp định khác có hiệu lực năm 2018. Đồng thời, đẩy nhanh tiến độ tái cơ cấu các Tổng Công ty thuộc Tập đoàn.
Ngoài ra, về việc áp dụng bảo hiểm xã hội theo chương trình mới, ông Dũng cho biết, các đơn vị thuộc Tập đoàn đã chuẩn bị cải tiến, áp bảng lương theo chế độ mới, phù hợp với Luật lao động.
Hiện nay, ngành Dệt may Việt Nam có khoảng 2,5 triệu lao động, dự kiến đến năm 2025 số lao động sẽ tăng lên 5 triệu. Với hàng loạt các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã và sẽ tham gia, việc phát triển và quản trị nguồn nhân lực càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Doanh nghiệp cần xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, khuyến khích sự sáng tạo của người lao động
Tăng trưởng nhanh, thách thức lớn
Các chuyên gia kinh tế nhận định, dệt may đang trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn có nhiều chính sách ưu tiên từ Chính phủ và hứa hẹn sẽ đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, đóng góp nhiều hơn cho ngân sách nhà nước nhờ tham gia các FTA và Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC).
Bên cạnh những cơ hội, ngành Dệt may Việt Nam cũng đang đối mặt với không ít thách thức, đặc biệt là tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao. Hiện tại, nhu cầu tuyển dụng nhân lực của các doanh nghiệp (DN) dệt may có xu hướng yêu cầu cao hơn về trình độ nghề, giảm số lao động chưa qua đào tạo. Ngoài các kỹ năng chuyên ngành, DN cũng luôn đòi hỏi kinh nghiệm, kỹ năng giao tiếp, tìm kiếm đối tác, khả năng ngoại ngữ, đặc biệt đối với các vị trí quản lý như trưởng phòng kế hoạch, quản lý đơn hàng…
Tuy nhiên, việc đào tạo nhân lực cho ngành dệt may hiện chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. TP. Hồ Chí Minh được coi là trung tâm đào tạo lao động ngành dệt may cũng chỉ có 11 trường đào tạo khoảng 1.900 lao động mỗi năm. Hầu hết các sinh viên ra trường được tuyển dụng phải mất 3 năm đào tạo lại mới sử dụng được. Đặc biệt, nhân lực thiết kế thời trang được đào tạo tại Việt Nam chỉ có khả năng kinh doanh ở quy mô nhỏ mà chưa thể thiết kế và triển khai sản xuất để thương mại hóa với quy mô toàn ngành. Khả năng đáp ứng nhu cầu tăng thêm của đội ngũ kỹ sư, kỹ thuật viên phục vụ cũng rất khó khăn…
Doanh nghiệp nỗ lực vào cuộc
Năm 2014, Bộ Công thương ban hành Quyết định số 3218/QĐ-BCT phê duyệt quy hoạch phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Trong đó, dệt may sẽ trở thành một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn, hướng về xuất khẩu, tạo nhiều việc làm cho xã hội… Để tận dụng tối đa lợi thế mà các FTA mang lại, ngoài sự hỗ trợ của Nhà nước, sự nỗ lực đầu tư, cải tiến công nghệ, mẫu mã, chất lượng sản phẩm, DN ngành Dệt may cần chú trọng phát triển và quản trị nguồn nhân lực. Cụ thể, tăng cường liên kết giữa các DN và trường dạy nghề trong công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Tiếp tục củng cố hệ thống đào tạo chuyên ngành dệt may, thành lập trường đại học chuyên ngành về công nghệ dệt may và thời trang. Tiếp tục cải tiến, xây dựng kế hoạch đào tạo lao động ngành dệt may sát với thực tiễn. Nội dung bao gồm, đào tạo về kỹ thuật, công nghệ và các kỹ năng mềm trong lĩnh vực quản trị, phát triển sản phẩm, thiết kế và nghiên cứu thị trường, đào tạo nghề. Mặt khác, trong quá trình đào tạo, người học cần được đào tạo căn bản về chuyên môn, kỹ năng sống, phong cách làm việc chuyên nghiệp. Các DN cũng cần “cởi mở” hơn trong việc sử dụng nguồn nhân lực, không chỉ dừng lại ở việc đưa ra yêu cầu mà phải cùng với các trường tham gia đào tạo, chấp nhận đầu tư, chủ động đào tạo nhân lực cho chính mình, tránh phụ thuộc vào nhân lực có sẵn do các trường đào tạo… Ngoài ra, một thực tế hiện nay cho thấy đa phần đội ngũ nhân viên nhân sự trong các DN dệt may đều từ các ngành nghề khác chuyển sang, tuy có kinh nghiệm trong quản lý nhưng lại thiếu kiến thức chuyên ngành, từ đó làm giảm hiệu quả của quản trị nguồn nhân lực trong DN. Do vậy, việc lên kế hoạch đào tạo lại cho đội ngũ quan trọng này cũng cần được quan tâm nhiều hơn.
Đặc biệt, để phát triển và quản trị nguồn nhân lực hiệu quả, các DN cần xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong DN. Tại đây, quyền và lợi ích đối với đội ngũ nhân lực được bảo đảm dựa trên cơ sở xây dựng được quan hệ lao động tốt đẹp sẽ tạo sự ổn định và phát triển lâu dài cho DN, qua đó, hạn chế tình trạng bỏ việc, kích thích sự sáng tạo và cống hiến của người lao động.
(NDH) Mặc dù đã từng được kỳ vọng tăng trưởng rất lớn, thế nhưng kể từ khi TPP chính thức được thông qua giá cổ phiếu dệt may đã giảm xuống mức thấp nhất hơn 1 năm qua. Vì sao?
Năm 2015 là năm đánh dấu những bước tiến lớn của Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế với hàng loạt các hiệp định thương mại tự do đang trong quá trình đi đến ký kết đặc biệt hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Theo đó, những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như nông - thuỷ sản, dệt may được kỳ vọng sẽ bước sang giai đoạn tăng trưởng mạnh. Ngân hàng Thế giới từng dự báo, ngành may mặc của Việt Nam sẽ hưởng lợi rất lớn nếu TPP hoàn tất, đến năm 2020, tốc độ tăng trưởng chung của toàn ngành dệt may có thể đạt 41%, tương ứng với giá trị xuất khẩu tăng thêm 11,5 tỷ USD. Trong đó, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường Mỹ có thể đạt kỷ lục 90%.
Ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam cũng đưa ra dự báo khi Hiệp định TPP có hiệu lực, con số này sẽ tăng đến 25%/năm đồng thời cho rằng ngành dệt may sẽ có lợi ích lớn, với "sân chơi" rộng, mang tính toàn diện và hàng rào thuế quan sẽ về 0%, thay vì mức thuế từ 12 - 17% như hiện nay.
Với những dự báo lạc quan đến từ nhiều phía, nhóm cổ phiếu ngành dệt may đã có những giai đoạn tăng trưởng rất mạnh. Từ thời điểm năm 2014, cho đến ngày hiệp định TPP chính thức được thông qua, nhóm cổ phiếu ngành dệt may có mức tăng trưởng mạnh. Ngoại trừ EVE giảm 12%, các cổ phiếu như GIL của Công ty Cổ phần Sản xuất Kinh doanh Xuất nhập khẩu Bình Thạnh (HOSE) tăng 20%, TNG của Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG (HNX) tăng 160%, TCM của Công ty Cổ phần Dệt may - Đầu tư - Thương mại Thành Công (HOSE) tăng 89% và GMC của Công ty Cổ phần Sản xuất Thương mại May Sài Gòn (HOSE) tăng khoảng 53%.
Thế nhưng, điều kỳ lạ xảy ra là tính từ thời điểm TPP thông qua đó cho đến nay, giá cổ phiếu ngành này bất ngờ đảo chiều mạnh. Trong nhóm vốn hoá lớn nhất, ngoại trừ GIL tăng 8% từ mức giá 31,5 nghìn đồng lên 34,1 nghìn đồng, các cổ phiếu khác đều giảm khá mạnh. Đáng chú ý là TCM, cái tên được kỳ vọng rất lớn từ TPP giảm 27% từ mức giá 38 nghìn đồng/cổ phiếu xuống còn 28 nghìn đồng/cp, GMC cũng giảm khoảng 20%, giảm mạnh nhất là TNG với mức 34%.
Mặc dù đã có làn sóng kỳ vọng tăng trưởng rất lớn, thế nhưng kể từ lúc có tin TPP được thông qua giá cổ phiếu dệt may đã giảm xuống mức thấp nhất hơn 1 năm qua, và xem như không mang lại lợi nhuận cho những nhà đầu tư nếu nắm giữ từ đầu năm 2015 đến nay.
Cổ phiếu dệt may giảm mạnh như vậy là vì lý do gì, phải chăng những ca tụng về tiềm năng tăng trưởng đó chỉ chỉ là bề nổi của vấn đề?
Giá trị gia tăng thấp
Theo thông tin từ Hiệp hội Dệt may Việt Nam, trong may mặc thì chỉ có 40% DN Việt Nam, còn 60% lại thuộc về doanh nghiệp nước ngoài FDI. Hầu hết ( 85%) trong số 40% DN Việt làm gia công may mặc, chỉ có 3% số DN có thể lấy được giá trị theo chuỗi cung ứng của ngành may, tức là từ sản xuất, phân phối và tiêu thụ.
Trong khi đó, các phân khúc khác trong chuỗi cung ứng có giá trị gia tăng lớn gấp nhiều lần như nghiên cứu phát triển, thiết kế, phân phối, xây dựng thương hiệu, thậm chí cả sản xuất nguyên phụ liệu đều được thực hiện ngoài Việt Nam.
Lướt qua hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp dệt may đang niêm yết, dù cổ phiếu của những doanh nghiệp như Dệt may Thành Công hay Garmex Sài Gòn đều được xếp hạng là cổ phiếu tốt thế nhưng biên lợi nhuận ngành này vẫn là rất thấp.
Ví dụ như trường hợp của công ty Dệt May Thành Công (HOSE: TCM), kết thúc năm 2015, tổng doanh thu của công ty đạt 2.792 tỷ đồng nhưng lợi nhuận sau thuế của TCM chỉ ở mức 153 tỷ đồng. Doanh thu chỉ tăng nhẹ so với cùng kỳ năm trước nhưng các chi phí đồng loạt tăng mạnh đã khiến lãi ròng chỉ đạt 22 tỷ đồng, giảm 44% so với cùng kỳ 2014, biên lợi nhuận gộp ở mức 15% trong khi biên lợi nhuận ròng của TCM chỉ ở mức 5,5%.
Tương tự là công ty CP Đầu Tư & Thương Mại TNG (HNX: TNG), doanh thu thuần của công ty năm 2015 tăng mạnh so với năm 2014, đạt 1.925 tỷ đồng, thế nhưng lợi nhuận cũng chỉ ở mức 73 tỷ đồng, biên lợi nhuận gộp khá cao ở mức 19% thế nhưng biên lợi nhuận ròng chỉ ở mức 4%.
Mặc dù dòng tiền hoạt động kinh doanh khá ổn định, thế nhưng chính sự ổn định trong cái khuôn khổ đó đó là một phần của việc nhóm cổ phiếu này kém hấp dẫn. Rõ ràng, các doanh nghiệp dệt may vẫn chưa có sự đột phá trong việc cải thiện hiệu quả hoạt động, lợi nhuận chưa tương xứng với doanh thu cho thấy sự giá trị gia tăng của ngành này là một điểm trừ đối với các nhà đầu tư.
Cạnh tranh từ đầu vào cho đến đầu ra
Với yêu cầu khắt khe của TPP theo nguyên tắc từ sợi trở đi, lĩnh vực sản xuất nguyên phụ liệu dệt may có thể bùng nổ tại Việt Nam. Điều này giúp giải quyết vấn đề xuất xứ, nhưng đó cũng sẽ là lĩnh vực có mức độ cạnh tranh rất cao, trong đó các doanh nghiệp trong nước sẽ phải chịu sức ép từ các doanh nghiệp FDI.
Một vị đại diện của một công ty dệt may cho rằng, nhìn trong lĩnh vực dệt may, đa phần các doanh nghiệp FDI là công ty toàn cầu đến từ các cường quốc ngành dệt may, họ có xu hướng đầu tư khép kín từ kéo sợi đến thành phẩm may mặc, các công đoạn thiết kế, phân phối do công ty mẹ đảm nhận.
Xu thế này được dự báo sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh lớn do FDI có giá thành thấp hơn, bên cạnh đó doanh nghiệp dệt may còn phải lo nguồn cung vải chưa đáp ứng đủ nhu cầu tăng trưởng của các doanh nghiệp và sẽ tạo cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực cung ứng nguyên liệu theo yêu cầu xuất xứ.
Ngài ra, việc xuất hiện một “làn sóng” đầu tư mới vào ngành dệt may cũng đang đặt ra cho các DN Việt Nam thách thức không nhỏ, nhất là nỗi lo thiếu lao động. Việc có thêm nhiều DN FDI hoạt động trong lĩnh vực may mặc tại Việt Nam càng làm tăng áp lực cạnh tranh thu hút lao động khiến chi phí nhân công có thể tăng.
Trong năm 2015, hội đồng Tiền lương Quốc gia đã chốt lương tối thiểu 2016 tăng 12,4% sẽ tiếp tục trở thành gánh nặng chi phí cho các doanh nghiệp may mặc.
Trao đổi với báo giới, ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Vitas cho biết mức tăng như Hội đồng Tiền lương Quốc gia chốt rất thách thức cho ngành dệt may.
Chẳng hạn, với một doanh nghiệp lớn như Tổng công ty May Việt Tiến có hơn 10.000 lao động đang hưởng lương, nếu tính toán với mức tăng dự kiến thì năm 2016 chi phí tiền lương phải trả của đơn vị tăng thêm xấp xỉ 100 tỷ đồng (khoảng 173 tỷ đồng). Khi Luật Bảo hiểm mới có hiệu lực vào 2018, riêng tiền bảo hiểm Việt Tiến phải đóng là 407 tỷ đồng, tăng gần 6 lần so với hiện nay.
Rõ ràng, đối với các doanh nghiệp dệt may trong nước sẽ có nhiều vấn đề lo lắng vì tỷ suất sinh lời hiện tại đã thấp, nếu các khoản chi phí tiếp tục tăng sẽ khó lòng đảm bảo lợi nhuận. Với những công ty trên sàn như CTCP Sản xuất Thương mại May Sài Gòn (GMC) có khoảng 4.000 lao động, CTCP Dệt may Đầu tư Thương mại Thành Công (TCM) khoảng 4.500 công nhân thì việc tăng lương tối thiểu dự kiến sẽ tác động lớn đến lợi nhuận.
Cơ hội tăng trưởng không cao
Việc VN tham gia TPP rõ ràng là cơ hội rất lớn, điều quan trọng là bao giờ các DN Việt thoát ra được cái cũ để giành lấy cơ hội thì mới tạo ra được giá trị gia tăng cao. Hiện các doanh nghiệp trong nước dù có thể được đặt hàng nhiều hơn, nhưng vẫn là trên cơ sở phát triển theo chiều rộng, gia tăng lao động, quy mô nhà xưởng để thực hiện các công đoạn có giá trị gia tăng kém nhất, mà không tận dụng được TPP để thay đổi về chất. Đó là chưa kể lĩnh vực này tiêu tốn tài nguyên không nhỏ, chịu sức ép về môi trường và cũng vẫn nằm trong tầng giá trị gia tăng thấp của chuỗi cung ứng.
“Vấn đề quan ngại cuối cùng là liệu doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng được các ưu đãi thuế quan không trước những yêu cầu cao về qui tắc xuất xứ của hàng hoá để được hưởng ưu đãi. Không phải tất cả doanh nghiệp trong giai đoạn ban đầu đều có thể hưởng lợi ngay từ quy định này. Trong ngành dệt may, có thể chỉ có khoảng 30% đơn hàng xuất khẩu sang Hoa kỳ là đáp ứng được yêu cầu này trong giai đoạn ban đầu.” Theo TS Lê Quốc Ân - Trưởng ban Cố vấn Hiệp hội Dệt May Việt Nam
Do vậy, mặc dù giá cổ phiếu nhóm này đã giảm về vùng đáy. Thế nhưng với những đặc thù của các doanh nghiệp dệt may trên sàn hiện nay thì khó có thể kỳ vọng nhà đầu tư sẽ trả một mức giá cao trong giai đoạn hiện nay khi mà các doanh nghiệp này chưa chứng minh được những lợi thế vượt trội mà họ có được để có thể gặt hái được “trái ngọt” TPP.